Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (ma túy tổng hợp) số 07/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 07/2023/HS-ST NGÀY 10/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2023/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:

Tráng S, sinh năm 1997 tại huyện M, tỉnh Hủa Phăn, Lào. Nơi cư trú: Bản K, cụm N, huyện M, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Lào; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Tráng Sông P (đã chết) và bà Sồng D; có vợ là Sồng I và 04 con (con lớn nhất sinh năm 2013, con nhỏ nhất sinh năm 2021); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/7/2023 cho đến nay. Có mặt.

- Người phiên dịch: Bà Cà Thị D1, sinh năm 1986. Nơi cư trú: Tổ X, phường C, thành phố S1, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 23 giờ 30 phút ngày 24/7/2023, Tổ công tác Công an huyện S2, tỉnh Sơn La phối hợp với các lực lượng chức năng làm nhiệm vụ tại khu vực bản H, xã M1, huyện S2, tỉnh Sơn La phát hiện, bắt quả tang Tráng S đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Tráng S.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa 04 viên nén màu hồng, nghi là ma túy tổng hợp.

Hồi 10 giờ 00 phút ngày 25/7/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S2 tiến hành lập Biên bản mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng đối với số vật chứng thu giữ, kết quả: 04 viên nén màu hồng có khối lượng 0,39 gam, lấy toàn bộ làm mẫu trưng cầu giám định chất ma túy, ký hiệu S.

Tại Kết luận giám định số 1823/KL-KTHS ngày 26/7/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh Sơn La kết luận:

- Mẫu ký hiệu S gửi giám định là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,39 gam.

- Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,39 gam; Loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra, Tráng S khai nhận:

Khoảng 16 giờ ngày 24/7/2023, Tráng S một mình đi bộ từ nhà ở bản K, cụm N, huyện M, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đến bản H, xã M1, huyện S2, tỉnh Sơn La mục đích tìm hái nấm rừng để bán. Khi đi đến khu vực bản K2, cụm N, huyện M, tỉnh Hủa Phăn, Lào, S gặp một người đàn ông dân tộc Mông (Lào) không quen biết đi ngược chiều. Do bản thân nghiện ma túy nên S đã chủ động hỏi người đàn ông “có hồng phiến bán không?”; người này trả lời “có, muốn mua bao nhiêu?”; S trả lời “muốn mua với số tiền 50.000 LAK (năm mươi nghìn Kíp Lào)” và lấy từ trong người ra 50.000 LAK đưa cho người đàn ông. Sau khi nhận tiền, người đàn ông lấy từ trong người ra 01 gói nilon màu hồng và nói bên trong là hồng phiến. S nhận lấy gói nilon màu hồng rồi mở ra kiểm tra thì thấy bên trong chứa 04 viên hồng phiến. S cất số ma túy vừa mua được vào trong túi bên trái trước ngực áo khoác đang mặc rồi tiếp tục đi bộ đến bản H, xã M1, huyện S2, tỉnh Sơn La.

Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, khi S đang tìm hái nấm tại khu vực bản H, xã M1, huyện S2, tỉnh Sơn La thì bị Tổ công tác Công an huyện S2 phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng thu giữ như đã nêu ở trên.

Về nguồn gốc 0,39 gam ma túy, loại Methamphetamine thu giữ trong vụ án: Tráng S khai mua của một người đàn ông dân tộc Mông (Lào) không quen biết tại khu vực bản K2, cụm N, huyện M, tỉnh Hủa Phăn, Lào.

Do có hành vi nêu trên, tại Cáo trạng số 133/CT-VKS-P1 ngày 12/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố Tráng S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa sơ thẩm:

Bị cáo Tráng S thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố và không khai báo gì thêm.

* Tranh luận tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La trình bày luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Tráng S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Tráng S từ 13 đến 16 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 37 Bộ luật Hình sự: Trục xuất bị cáo khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy một chiếc phong bì còn nguyên niêm phong bên trong có chứa 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh nilon màu hồng đựng ma túy ban đầu.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Tráng S nhất trí với luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Ngày 24/7/2023, tại khu vực bản H, xã M1, huyện S2, tỉnh Sơn La, Tráng S bị Tổ công tác Công an huyện S2 phối hợp với các lực lượng chức năng phát hiện, bắt quả tang khi đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,39 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Tổ công tác Công an huyện S2, tỉnh Sơn La lập hồi 23 giờ 40 phút ngày 24/7/2023 tại bản H, xã M1, huyện S2, tỉnh Sơn La đối với Tráng S cùng vật chứng thu giữ là 01 gói nilon màu hồng bên trong có chứa 04 viên nén màu hồng, nghi là ma túy tổng hợp.

- Biên bản mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng lập hồi 10 giờ 00 phút ngày 25/7/2023 tại Công an huyện S2, tỉnh 3 Sơn La xác định: 04 viên nén màu hồng đựng trong gói nilon màu hồng có khối lượng 0,39 gam.

- Kết luận giám định số 1823/KL-KTHS ngày 26/7/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,39 gam; Loại Methamphetamine”.

- Lời khai nhận tội của bị cáo Tráng S tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của anh Lường Văn O, sinh năm 1992, trú tại: Bản M1, xã M1, huyện S2, tỉnh Sơn La, là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang đối với Tráng S; phù hợp với khối lượng ma túy thu giữ và các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa.

Với các căn cứ chứng minh trên có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Tráng S đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La truy tố đối với bị cáo về tội danh nêu trên là có căn cứ.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt Bị cáo Tráng S thực hiện hành vi phạm tội với khối lượng ma túy tàng trữ trái phép là 0,39 gam, loại Methamphetamine, đã vi phạm tình tiết định khung hình phạt “… Methamphetamine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Bị cáo Tráng S là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước Việt Nam về chất ma túy; là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội khu vực biên giới Việt Nam - Lào nên cần có mức hình phạt tù tương xứng với khối lượng ma túy thu giữ, tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo mới bảo đảm biện pháp cải tạo, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là các tội phạm về ma túy trong giai đoạn hiện nay.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Bị cáo Tráng S có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Bị cáo Tráng S đang bị tạm giam, thời hạn tạm giam còn lại dưới 45 4 ngày nên cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để bảo đảm cho việc thi hành án theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về hình phạt bổ sung Ngoài hình phạt chính, bị cáo Tráng S còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có việc làm, thu nhập ổn định và là người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam nên không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo mà vận dụng Điều 37 Bộ luật Hình sự, áp dụng hình phạt bổ sung trục xuất bị cáo khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

[8] Về các đối tượng có liên quan Đối với người đàn ông dân tộc Mông (Lào) theo Tráng S khai là người bán ma túy cho bị cáo tại khu vực bản K2, cụm N, huyện M, tỉnh Hủa Phăn, Lào: Kết quả điều tra xác định Tráng S không biết họ tên, địa chỉ của người đàn ông này. Ngoài lời khai của S thì không còn nguồn tài liệu, chứng cứ nào khác nên Cơ quan điều tra xác định không có căn cứ để tiếp tục xác minh, điều tra là đúng quy định.

[9] Về vật chứng Đối với 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở và 01 mảnh nilon màu hồng đựng ma túy ban đầu: Xét đây là vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí Bị cáo Tráng S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Tráng S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Tráng S 13 (mười ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/7/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

2. Căn cứ Điều 37 Bộ luật Hình sự: Áp dụng hình phạt bổ sung trục xuất bị cáo Tráng S khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

3. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

5 Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở và 01 mảnh nilon màu hồng đựng ma túy ban đầu được niêm phong trong một chiếc phong bì của Công an huyện S2 còn nguyên niêm phong.

(Hiện trạng, đặc điểm vật chứng, tài sản theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập hồi 10 giờ 15 phút ngày 06/10/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S2, tỉnh Sơn La và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sơn La) 4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Tráng S phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 10/11/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

96
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (ma túy tổng hợp) số 07/2023/HS-ST

Số hiệu:07/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:10/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về