Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (loại hồng phiến) số 07/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 07/2021/HS-ST NGÀY 22/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22/12/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2021/HSST-QĐ ngày 24 tháng 11 năm 2021, Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 05/TB-TA ngày 10 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lường Văn P; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1978 tại tỉnh Lào Cai; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Bản C, xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông Lường Văn Th (đã chết) và con bà Lý Thị X, sinh năm 1956; Vợ chưa có, tuy nhiên sống chung như vợ chồng với Gì Thị M, sinh năm 1983 trú tại Bản C, xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu; có 01 con sinh năm 2004; Bị cáo có 07 anh, em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 23/7/2021 đến ngày 29/7/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu cho đến nay, (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng: anh Nguyễn Tiến D, sinh năm 1987, trú tại tổ 11, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Hồi 21 giờ 30 phút ngày 22/7/2021, tổ công tác của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L, tỉnh Lai Châu phối hợp với Công an xã S thành phố L đang làm nhiệm vụ tại khu vực Bản Mới, xã S, thành phố L thì phát hiện và lập biên bản vi phạm hành chính đối với Nguyễn Tiến D, sinh năm 1987 trú tại tổ 11, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đồng thời thu giữ của D 01 bật lửa ga bằng nhựa màu xanh, 01 mảnh giấy một mặt màu vàng, một mặt màu trắng.

D khai nhận, D vừa sử dụng ma túy loại hồng phiến, nguồn gốc ma túy do D mua của Lường Văn P tại bản C, xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu với giá 200.000đồng. Căn cứ lời khai của D, ngày 23/7/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật của Lường Văn P. Quá trình khám xét Phúc tự giác giao nộp 01 gói bên ngoài được gói bằng một mảnh nilon màu xanh, bên trong có 02 viên nén màu hồng và 2 viên nén màu xanh và khai nhận là ma túy loại hồng phiến P tàng trữ mục đích để sử dụng cho cá nhân. Nguồn gốc số ma túy trên là do vào ngày 19/7/2021 P đi một mình bằng xe khách vào thị trấn Mường Tè, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu thì gặp một người đàn ông không rõ lai lịch, người này hỏi P “có chơi ngựa không” tức là “có chơi ma túy không”, P bảo “có”, sau đó P đưa cho người đàn ông 100.000 đồng và nhờ đi mua hộ. Người đàn ông đồng ý , cầm tiền đi đâu một lúc quay lại đưa cho P 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh, bên trong có 03 viên nén màu hồng, 02 viên nén màu xanh.

Nhận được ma túy P cất vào túi áo ngực đang mặc rồi đến chiều cùng ngày P bắt xe khách đi về nhà ở bản C, xã S, thành phố L với mục đích để sử dụng dần. Sáng ngày 23/7/2021 P lấy 01 viên nén màu hồng trong tổng số 05 viên ra sử dụng bằng hình thức hít, 04 viên còn lại P gói lại như cũ và để trên mặt bàn trong bếp nhà P. Đến 13 giờ ngày 23/7/2021 cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L thi hành lệnh khám xét thì P tự giác cầm 01 gói ma túy bên trong có 02 viên nén màu hồng, 02 viên nén màu xanh ra giao nộp.

Các vấn đề khác của vụ án:

Theo lời khai của bị cáo P, nguồn gốc 0,43 gam Methamphetamine cơ quan Công an thu giữ là của bị cáo mua của người đàn ông không rõ lai lịch tại thị trấn Mường Tè, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Kết quả điều tra không xác định được lai lịch của người đàn ông này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xử lý.

Theo lời khai của Nguyễn Tiến D, nguồn gốc ma túy D sử dụng là mua của Lường Văn P vào ngày 22/7/2021. Kết quả điều tra, đối chất ngày 26/9/2021 giữa Nguyễn Tiến D và bị cáo Lường Văn P, bị cáo P không thừa nhận đã bán ma túy cho D, việc mua bán giữa D và bị cáo không ai chứng kiến, ngoài lời khai duy nhất của D nên không đủ cơ sở để xử lý P về tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Tiến D và vật chứng thu giữ 01 bật lửa ga bằng nhựa màu xanh, 01 mảnh giấy một mặt màu vàng, một mặt màu trắng đã được cơ quan điều tra Công an thành phố L ra Quyết định xử phạt hành chính.

Kết luận giám định số 32/KLGĐ ngày 24/7/2021 của Giám định viên tư pháp theo vụ việc Công an thành phố L, tỉnh Lai Châu (Bút lục số 11) kết luận: 04 viên nén thu giữa của Lương Văn Phúc trong quá trình khám xét người, chỗ ở, đồ vật ngày 23/7/2021 có khối lượng là 0,43 gam (không phẩy bốn mươi ba gam) Kết luận giám định số 644/GĐ-KTHS ngày 28/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu (Bút lục số 14) kết luận: 01 mẫu viên nén màu xanh (ký hiệu M1) và 01 mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M2) gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine.

Tại phiên tòa hôm nay: Người làm chứng anh Nguyễn Tiến D vắng mặt nhưng trong quá trình điều tra anh D khai vào ngày 22/7/2021 anh mua của Lường Văn P 200.000 đồng ma túy loại hồng phiến, khi mới vừa sử dụng ma túy xong thì bị cơ quan điều tra Công an thành phố L phát hiện lập biên bản vi phạm hành chính và thu giữ 01 bật lửa ga bằng nhựa màu xanh, 01 mảnh giấy một mặt màu vàng, một mặt màu trắng. Việc mua bán ma túy giữa anh và bị cáo P không có ai chứng kiến.

Cáo trạng số 49/CT-VKSTP ngày 25/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lai Châu đã truy tố Lường Văn P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lường Văn P phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Về hình phạt chính: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lường Văn P từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ 06 ngày, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án; Hình phạt bổ sung: đề nghị hội đồng xét xử áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự xem xét miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo;

- Về biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị hội đồng xét xử tuyên: Tịch thu, tiêu hủy đối với 01 phong bì niêm phong là phong bì công văn của Công an thành phố L Châu (Theo hồ sơ bên trong là 01 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ phong bì niêm phong trong quá trình khám xét khẩn cấp đối với Lường Văn P ngày 23/7/2021);

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về Cáo trạng, kết luận nêu trên.

Tại lời nói sau cùng bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của bản thân và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Hồi 13 giờ 00 phút ngày 23/7/2021, tại nơi ở của Lường Văn P thuộc bản C, xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu, bị cáo Lường Văn P đang tàng trữ trái phép 0,43 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L, tỉnh Lai Châu thi hành lệnh khám xét khẩn cấp thu giữ.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản khám xét khẩn cấp, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo Lường Văn P là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, ý thức được điều đó nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Lường Văn P có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điều luật quy định:

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

.................

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Do đó, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L tại phiên tòa là có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo không có tiền án, tiền sự;

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có bố đẻ là ông Lường Văn T được Nhà nước tặng thương Huân chương kháng chiến hạng ba. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử thấy trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, đồng thời cần có một mức hình phạt phù hợp nhằm tiếp tục răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn mặt khác bị cáo còn phải chấp hành án phạt tù nên Hội đồng xét xử cần quyết định miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 0,43 gam Methamphetamine Cơ quan điều tra Công an thành phố L đã gửi toàn bộ đi giám định, sau giám định không hoàn lại mẫu vật nên không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

- Đối với 01 phong bì niêm phong là phong bì công văn của Công an thành phố L, tỉnh Lai Châu (Theo hồ sơ bên trong là 01 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ phong bì niêm phong trong quá trình khám xét khẩn cấp đối với Lường Văn P ngày 23/7/2021), xét thấy vật chứng là công cụ phạm tội, là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự:

[1] Tuyên bố bị cáo Lường Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

[2] Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lường Văn P 15 (mười lăm) tháng tù. Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ 06 (sáu) ngày, bị cáo còn phải chấp hành là 14 (mười bốn) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

[3] Về vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy đối với 01 phong bì niêm phong là phong bì công văn của Công an thành phố L, tỉnh Lai Châu (Theo hồ sơ bên trong là 01 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ phong bì niêm phong trong quá trình khám xét khẩn cấp đối với Lường Văn P).

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 14 giờ 30 phút ngày 28/10/2021 giữa Công an thành phố L, tỉnh Lai Châu và Chi cục thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lai Châu).

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

91
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (loại hồng phiến) số 07/2021/HS-ST

Số hiệu:07/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về