Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (loại Heroine) số 66/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 66/2022/HS-ST NGÀY 07/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 7 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Nghệ An, xét xử trực tuyến công khai từ phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Nghệ An và điểm cầu trại tạm giam Công an tỉnh nghệ An, vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 57/2022/TLSTHS ngày 25 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2022/QĐXXHS-ST ngày 26 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Nghệ An, đối với bị cáo:

Họ và tên: Vi Thanh T; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 12/6/1978 tại huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: xóm N, xã L, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): không; con ông: Vi Văn T, sinh năm: 1952 và bà: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1954; vợ: Hoàng Thị H, sinh năm: 1980; con: có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2012; Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 28/8/2019 bị Tòa án nhân dân thị xã Thái Hòa xử phạt 15 tháng tù về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án 55/2019/HS-ST. Chấp hành xong ngày 10/8/2020. Đến nay chưa được xóa án tích Nhân thân:

+ Ngày 27/11/2007 bị Tòa án nhân dân huyện Quế Phong xử phạt 04 năm 06 tháng tù về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số 105/2007/HSST. Chấp hành xong ngày 30/4/2011

+ Ngày 28/11/2014 bị Tòa án nhân dân thị xã Thái Hòa xử phạt 27 tháng tù về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án 56/2014/HS-ST. Chấp hành xong ngày 31/8/2016.

Bị cáo Vi Thanh T bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An từ ngày 21/6/2022 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến:

Ông Lê Đức Chung, sinh năm: 1970. Trú tại: Xóm 4 xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 9 giờ ngày 21/6/2022, Vi Thanh T đi nhờ xe của người đi đường từ nhà thuộc xóm N, xã L, huyện Nghĩa Đàn qua địa phận huyện T để tìm mua ma túy nhằm mục đích sử dụng. Khi đi đến khu vực Cầu treo thuộc xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An thì T xuống xe đi bộ. Tại đây, T gặp một người đàn ông lạ mặt (T không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ) đang đứng bên đường nên T dừng lại nói chuyện. Quá trình nói chuyện thì T biết người đàn ông này có ma túy nên T hỏi “Anh có đó không để cho em năm trăm” (Ý T hỏi mua 500.000 đồng ma túy Heroine), thì người đàn ông nói “Có, đưa tiền đây”. Sau đó Vi Thanh T lấy số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) đưa cho người đàn ông nói trên, người này cầm tiền rồi đưa cho T 01(Một) gói nhỏ bên ngoài là lớp giấy thiếc màu trắng, mở ra bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục. Vi Thanh T biết đây là ma túy nên T cầm trong bàn tay phải rồi đi bộ tìm vị trí sử dụng. Khi đi đến khu vực đường liên thôn thuộc xóm 4, xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An thì bị Cơ quan Công an huyện T phát hiện, yêu cầu kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra,Vi Thanh T đã tự nguyện giao nộp gói ma túy nói trên cho tổ công tác và khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Đến 15 giờ ngày 21/6/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã thành lập hội đồng mở niêm phong cân xác định khối lượng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại: Số chất bột màu trắng dạng cục được gói bên ngoài là lớp giấy thiếc màu trắng có khối lượng 0,19g (Không phẩy mười chín gam). Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã lấy 0,05g (Không phẩy không năm gam) chất bột màu trắng dạng cục gửi đi giám định. Số còn lại gồm vỏ bao bì và số chất bột màu trắng dạng cục có khối lượng 0,14g (Không phẩy mười bốn gam) được niêm phong lại trong 01 (Một) phong bì thư có chữ ký của Vi Thanh T, người chứng kiến cùng các thành viên tham gia niêm phong.

Tại bản kết luận giám định số 942/KL-KTHS(Đ2-MT) ngày 26/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất bột màu trắng dạng cục thu giữ của Vi Thanh T gửi tới giám định là ma túy (Heroine), có tổng khối lượng là 0,19g (Không phẩy mười chín gam).

Tại bản cáo trạng số: 65/CT-VKSTK ngày 23 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Vi Thanh T, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS, xử phạt Vi Thanh T mức án từ 24 đến 27 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/6/2022.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu, tiêu hủy: 0,14g (Không phẩy mười bốn gam) ma túy (Heroine) còn lại sau khi đã lấy mẫu gửi đi giám định.

Về án phí: Buộc bị cáo Vi Thanh T phải chịu tiền án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Vi Thanh T có lời nói sau cùng: Bị cáo bị truy tố và xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội. Bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS). Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Vi Thanh T đã khai nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, đúng như nội dung của bản cáo trạng đã nêu và quy kết, không có khai nại gì khác. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, được lập vào ngày 21/6/2022, phù hợp với vật chứng, lời khai của người chứng kiến, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, đã đầy đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 10 giờ 55 phút ngày 21/6/2022, tại khu vực đường liên thôn thuộc xóm 4, xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An, Công an huyện T đã phát hiện và bắt quả tang Vi Thanh T đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,19g (Không phẩy mười chín gam) ma túy Heroine nhằm mục đích sử dụng. Như vậy: Hành vi tàng trữ 0,19g (Không phẩy mười chín gam) ma túy (Heroine) nhằm mục đích sử dụng của Vi Thanh T đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong việc quản lý đối với các loại chất ma túy. Tệ nạn sử dụng trái phép chất ma túy trong thời gian gần đây có xu hướng gia tăng, không những gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an trong xã hội, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân mà còn trực tiếp làm suy kiệt giống nòi, gây ra hiểm họa HIV-AIDS và là tác nhân của nhiều loại tệ nạn, tội phạm khác. Vi Thanh T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy của mình là trái pháp luật, bị cáo có 01 tiền án về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”, có nhân thân xấu đã 2 lần bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Mua bán trái phép chất ma túy” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học chử thân, lần này bị cáo vẫn cố tình thực hiện tội phạm, vì vậy cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung là thật sự cần thiết.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 BLHS quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng,… tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, qua kết quả xác minh tại địa phương, xét thấy bị cáo không tài sản riêng, thu nhập từ lao động làm thuê tự do, không ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Trong vụ án này, theo lời khai của Vi Thanh T thì nguồn gốc 0,19g (Không phẩy mười chín gam) ma túy (Heroin) mà T tàng trữ là mua của người đàn ông trạc khoảng 45 tuổi, cao 1,65m, quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã tiến hành xác minh trên địa bàn xã N, huyện T nhưng chưa làm rõ được lai lịch, địa chỉ cụ thể, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[7] Về vật chứng vụ án: 0,14g (Không phẩy mười bốn gam) ma túy (Heroine) còn lại sau khi đã lấy mẫu đi giám định thu giữ của Vi Thanh T là chất Nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ, sử dụng nên áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS để tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo Vi Thanh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố bị cáo: Vi Thanh T phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2- Về điều luật áp dụng:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vi Thanh T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo ngày 21/6/2022.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3- Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS, tiêu hủy: 0,14g (Không phẩy mười bốn gam) ma túy (Heroin) và vỏ bao bì niêm phong trong phong bì thư.

Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 26/8/2022 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện T và Chi cục thi hành án dân sự huyện T.

4- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí Tòa án: buộc bị cáo Vi Thanh T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5- Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (loại Heroine) số 66/2022/HS-ST

Số hiệu:66/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về