Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (loại Heroine) số 36/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA AN, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 36/2023/HS-ST NGÀY 25/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng đã tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 35/2023/TLST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Chu Văn V; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 15 tháng 8 năm 1990 tại huyện H, tỉnh Cao Bằng;

Nơi cư trú: Xóm V, xã N, huyện H, tỉnh Cao Bằng.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Chu Văn L và bà Lê Thị V1; Có vợ Đàm Thị Hồng T và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 27/8/2018 bị Công an huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma tuý bằng hình thức cảnh cáo.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 15/6/2023; Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Đàm Thị Hồng T; sinh năm 1992;

Nơi cư trú: Xóm V, xã N, huyện H, tỉnh Cao Bằng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 15/6/2023, bị cáo Chu Văn V dùng điện thoại di động cá nhân gắn số thuê bao 0363 513 xxx gọi điện và nhắn tin đến số thuê bao 0837 005 xxx của một người đàn ông bị cáo đã từng gặp và xin số điện thoại từ trước (Không biết họ tên, tuổi, địa chỉ), được lưu trong danh bạ điện thoại là "Ht" để hỏi mua Heroine. Người này đồng ý và hẹn bị cáo đến khu vực xóm 9 B, thị trấn N, huyện H, tỉnh Cao Bằng để trao đổi mua bán. Đến khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, bị cáo điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave, màu đen trắng, biển kiểm soát 11H1-xxxxx đến khu vực gần Nhà văn hóa xóm 9 B, thị trấn N gặp người đàn ông trên. Tại đây, bị cáo đưa cho người đàn ông số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), người này đưa lại cho bị cáo 01 (Một) gói Heroine được bọc bằng giấy bạc màu vàng. Sau đó, bị cáo cất gói Heroine vào túi quần phía trước bên phải đang mặc trên người rồi đi tìm chỗ để sử dụng thì bị Công an huyện Hòa An kiểm tra, phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng gồm: 01 (Một) gói nhỏ giấy vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng (Bị cáo khai là Heroine); 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 11H1-xxxxx; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, gắn số thuê bao 0363 513 xxx.

Ngày 15/6/2023, Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An đã tiến hành cân xác định trọng lượng tang vật là lượng ma túy thu giữ được của bị cáo với khối lượng tịnh là 0,1833 gam (Không phẩy một tám ba ba gam).

Tại Kết luận giám định số 301/KL-KTHS ngày 22/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: Chất bột màu trắng bên trong phòng bì niêm phong gửi giám định là ma tuý, loại: Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017)Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma tuý và tiền chất.

Tại bản cáo trạng số 35/CT-VKSHA ngày 04/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoà An, Cao Bằng đã truy tố bị cáo Chu Văn V về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Bản cáo trạng truy tố, bị cáo không có ý kiến gì. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Đàm Thị Hồng T thừa nhận chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11H1-xxxxx là của bản thân mua tại Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu C với giá 25.000.000đ (Hai mươi năm triệu đồng) vào năm 2018 và không có ai đóng góp tiền chung để mua xe. Do chị đi làm xa nên đã để xe ở nhà; việc bị cáo sử dụng xe để đi mua ma tuý chị không biết. Nay chị đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn trả lại chiếc xe để có phương tiện đi lại hằng ngày.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định của Bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249;

điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 12 (Mười hai) đến 18 (Mười tám) tháng tù; Về việc xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại là vật chứng của vụ án; Tịch thu, phát mại sung ngân sách Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động của bị cáo do có liên quan đến hành vi phạm tội; hoàn trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Đàm Thị Hồng T 01 (Một) xe mô tô là vật chứng của vụ án. Ngoài ra, Kiểm sát viên còn đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật và không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên về tội danh cũng như mức hình phạt; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị T không có ý kiến gì thêm. Khi nói lời sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử cân nhắc, xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, các yếu tố cấu thành tội phạm:

Tại phiên tòa bị cáo nhận tội, lời khai của bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, xác định: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 15/6/2023, tại khu vực xóm 9 B, thị trấn N, huyện H, tỉnh Cao Bằng, bị cáo V đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1833 gam (Không phẩy một tám ba ba gam) Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Với những căn cứ trên, Hội đồng xét xử khẳng định bị cáo Chu Văn V đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự .

Heroine là một dạng ma túy độc dược gây nghiện Nhà nước độc quyền quản lý và nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, chiếm đoạt và sử dụng trái phép. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật hình sự, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội với mục đích phục vụ nhu cầu sử dụng của cá nhân. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, bị cáo là người sử dụng ma túy và có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết áp dụng hình phạt nghiêm khắc là phạt tù có thời hạn đối với bị cáo để cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục, cải tạo riêng với bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng: Không.

- Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội, thể hiện sự ăn năn hối cải của bản thân. Bị cáo có bố đẻ ông Chu Văn L là người đã phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam được tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng ba. Do đó, bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Mức hình phạt Kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và đặc điểm nhân thân của bị cáo nên được chấp nhận.

Ngoài hình phạt chính, tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự còn quy định hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với người phạm tội danh này. Xét thấy bị cáo nghề nghiệp lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Liên quan đến vụ án này có người đàn ông đã bán ma tuý cho bị cáo V. Kết quả xác minh tại Phòng bán hàng H thuộc Trung tâm kinh doanh VNPT-Cao Bằng của Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam VNPT cho kết quả tra cứu chủ thuê bao số điện thoại 0837 005 xxx là bà Nhâm Thị C (sinh năm 1986, trú tại: Xóm B, xã N, huyện H, tỉnh Cao Bằng). Tuy nhiên, khi Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An đã tiến hành xác minh tại Công an xã N, kết quả cho thấy bà C không có mặt tại địa phương, đã chuyển đi nơi khác sinh sống, hiện nay không rõ đi đâu, làm gì, không thông báo cho chính quyền địa phương nơi cư trú. Hơn nữa bị cáo khai người bán ma tuý cho bị cáo là nam giới. Do vậy, đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục thu thập, xác minh, khi có đủ căn cứ sẽ khởi tố trong vụ án khác để xử lý đối với người đã bán ma tuý cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng vụ án:

- Đối với số heroine còn lại là vật chứng của vụ án; đây là loại ma túy mà Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy;

- Đối với 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO là phương tiện phạm tội của bị cáo, được bị cáo sử dụng để liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu, phát mại sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda-Wave màu đen trắng, biển kiểm soát 11H1-xxxxx. Kết quả xác minh cho thấy đây là tài sản riêng của vợ bị cáo chị Đàm Thị Hồng T. Việc bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy chị không biết nên cần hoàn trả cho chủ sở hữu là chị T là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Chu Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt đối với bị cáo:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

Xử phạt bị cáo Chu Văn V 15 (Mười năm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt giữ 15/6/2023.

3. Về xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự

- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì được niêm phong theo quy định, mặt trước phong bì ghi: “Hoàn lại mẫu sau giám định vụ: Chu Văn V có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, bắt ngày 15/6/2023”. Mặt sau phong bì có đóng 04 dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

- Tịch thu, phát mại sung ngân sách Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO-A15 màu trắng, có số SERI: AQUOBASGJRYLAAB6, gắn số thuê bao 0363513xxx, có số IMEI 1: 865613055912376, IMEI 2: 865613055912368 (Điện thoại đã qua sử dụng).

- Trả lại cho chị Đàm Thị Hồng T (Sinh năm 1992; trú tại: Xóm V, xã N, huyện H, tỉnh Cao Bằng) 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại: Wave, màu sơn đen trắng, mang biển kiểm soát 11H1-xxxxx; số khung: RLHJA3802GY120126, số máy: JA38E0311051 (Xe mô tô đã qua sử dụng, xe không có gương chiếu hậu, mặt nạ phía trước bên phải xe bị nứt, kèm chìa khoá xe).

Vật chứng của vụ án đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòa An, Cao Bằng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/8/2023.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Chu Văn V phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

91
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (loại Heroine) số 36/2023/HS-ST

Số hiệu:36/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà An - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về