Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (loại Heroine) số 104/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 104/2023/HS-ST NGÀY 12/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 108/2023/TLST- HS ngày 13 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 107/2023/QĐXXST - HS ngày 01 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Chu Văn V, (tên gọi khác: Không); sinh ngày 25 tháng 02 năm 1975 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Văn K (đã chết) và bà Chu Hị Y (đã chết); vợ: Nông Thị E và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số: 93/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 của Tòa án nhân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, xử phạt bị cáo 07 (bẩy) tháng tù giam về Tội vận chuyển hàng cấm, ngày 28/4/2021 đã chấp hành xong hình phạt tù và ngày 23/9/2022 đã chấp hành xong về án phí (đã được xóa án tích); bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/9/2023, tạm giam từ ngày 25/9/2023 đến nay; có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Lăng Văn H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 45 phút ngày 19/9/2023, tổ công tác Công an xã Thụy Hùng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Cao Lộc làm nhiệm vụ tại Thôn T, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Chu Văn V có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời điểm kiểm tra tổ công tác phát hiện có 01 (một) gói ma túy trong lòng bàn tay trái của Chu Văn V. Sau đó, tổ công tác đưa Chu Văn V cùng tang vật về trụ sở Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Kết luận giám định số: 972/KL-KTHS ngày 25/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: "Chất cục bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroin, có tổng khối lượng 0,135 gam (đã trừ bì)".

Tại Cơ quan điều tra, Chu Văn V khai nhận: Bản thân sử dụng chất ma túy Heroin từ tháng 6 năm 2023 đến trước khi bị bắt. Do có nhu cầu sử dụng nên khoảng 08 giờ 30 phút ngày 19/9/2023, Chu Văn V đi bộ từ nhà đến khu vực đường sắt cắt ngang tại xã D, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn gặp một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) và hỏi mua 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền ma túy Heroin. Người này đồng ý bán và đưa cho Chu Văn V 01 (một) gói giấy nhỏ màu trắng, bên trong có chứa chất ma túy Heroin. Khi mua được ma túy, Chu Văn V cầm trên tay trái và đi về nhà. Đến khoảng 09 giờ 45 phút cùng ngày, khi Chu Văn V đi đến Thôn T, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn thì bị lực lượng Công an yêu cầu kiểm tra và phát hiện bắt quả tang.

Cáo trạng số: 99/CT-VKS ngày 10 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Chu Văn V về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Chu Văn V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn trình bày luận tội, phân tích tính chất mức độ, nguyên nhân, động cơ, mục đích, phạm tội của bị cáo, xác định các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo. Khẳng định, Cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ pháp luật, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Chu Văn V phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về điều luật và hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 - xử phạt bị cáo mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Chu Văn V không có nghề nghiệp ổn định, là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng có giá trị, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy đã qua giám định còn lại là 0,109 gam Heroin được đựng trong 01 (một) gói giấy và được bỏ trong 01 (một) phong bì ghi chữ "QUẢ TANG CHU VĂN V", có chữ ký cùng tên của Giám định viên Hoàng Mạnh Hà, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.

Về án phí: Buộc bị cáo Chu Văn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Chu Văn V nhất trí với nội dung bản Luận tội, không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã nhận thấy lỗi lầm của bản thân, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng, giải thích hướng dẫn bị cáo về quyền tiếp cận trợ giúp pháp lý, quyền nhờ người bào chữa theo quy định. Các quyết định, hành vi tố tụng đã được thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người chứng kiến anh Lăng Văn H. Tuy nhiên trong hồ sơ vụ án đã có lời khai của anh Lăng Văn H. Xét thấy, việc vắng mặt của anh Lăng Văn H không gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án. Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định.

[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, phù hợp với Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa có đủ căn cứ xác định: Khoảng 09 giờ 45 phút ngày 19/9/2023, tổ công tác Công an huyện Cao Lộc làm nhiệm vụ tại Thôn T, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang bị cáo Chu Văn V có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ của bị cáo Chu Văn V 0,135 gam ma túy Heroin (đã trừ bì), mục đích sử dụng cho bản thân. Với hành vi trên, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Chu Văn V phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng, khi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, có đủ khả năng để nhận thức hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do bị cáo nghiện chất ma túy, nên vẫn cố ý thực hiện. Chúng ta đều biết ma túy là chất gây nghiện nguy hiểm do Nhà nước độc quyền quản lý, ma túy gây tổn hại về mặt kinh tế của gia đình và bản thân người sử dụng, gây hủy hoại sức khỏe của con người. Ma túy là nguyên nhân phát sinh, gia tăng nhiều loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, gây mất trật tự, an ninh chính trị tại địa phương, gây nỗi bất bình trong quần chúng nhân dân. Hiện nay, việc đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy đang là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Chính vì vậy, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh đúng theo pháp luật nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Để quyết định mức án phù hợp ngoài việc xem xét về hành vi phạm tội nêu trên. Hội đồng xét xử còn xem xét, đánh giá về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo như sau:

[6] Về nhân thân: Bị cáo đã bị kết án, nên bị cáo là người có nhân thân xấu.

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[9] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng". Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo là người lao động tự do thu nhập không ổn định, bị cáo không có tài sản gì riêng có giá trị và là người nghiện ma túy. Nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử thấy: Đối với số ma túy đã qua giám định còn lại là 0,109 gam Heroine được đựng trong 01 (một) gói giấy và được bỏ trong 01 (một) phong bì ghi chữ "QUẢ TANG CHU VĂN V", có chữ ký cùng tên của Giám định viên Hoàng Mạnh Hà, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành. Tịch thu, tiêu hủy.

[11] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo tại khu vực đường sắt cắt ngang tại xã D, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, do bị cáo không biết rõ họ, tên, địa chỉ của người này. Ngoài lời khai của bị cáo, không còn tài liệu nào khác, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc không đủ cơ sở để điều tra, xác minh làm rõ. Hội đồng xét xử không xem xét.

[12] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc tại phiên tòa về mức hình phạt của bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13] Về án phí: Bị cáo bị kết án, nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[14] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331; Điều 332;

Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 293; Điều 331; Điều 332; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Chu Văn V phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Chu Văn V 22 (hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 19/9/2023.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy đã qua giám định còn lại là 0,109 gam Heroine được đựng trong 01 (một) gói giấy và được bỏ trong 01 (một) phong bì ghi chữ "QUẢ TANG CHU VĂN V", có chữ ký cùng tên của Giám định viên Hoàng Mạnh Hà, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới.

(Vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn và được ghi chi tiết tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/11/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Bị cáo Chu Văn V phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (loại Heroine) số 104/2023/HS-ST

Số hiệu:104/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về