TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M C, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 08/2022/HS-ST NGÀY 23/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M C tiến hành mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2022/TLST- HS ngày 20 tháng 10 năm 2022. Theo quyết định đưa vụ án xét xử số: 08/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: L V T - Tên gọi khác: Không - Sinh năm: 1997. Tại huyện M C, tỉnh Điện Biên.
Nơi cư trú: Bản M A 2, xã P H, huyện M C, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ văn hóa: 5/12.
Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.
Con ông: L V T và bà: L T S.
Vợ: Q T C – Sinh năm: 2000. Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị cơ quan nhà nước nào xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị Tòa án xét xử. Ngày 30/8/2022 bị Công huyện M C bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 31/8/2022, tạm giam từ ngày 08/9/2022 đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo L V T là ông Lường Văn B – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Điện Biên - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ ngày 30/8/2022, L V T đi bộ từ nhà ở bản M A 2, xã P H, huyện M C đến bản P H, xã P H, huyện M C để tìm mua ma túy sử dụng. Khi đi đến khu vực đường Quốc lộ 06 thuộc bản P H, xã P H, T gặp một người đàn ông không rõ lai lịch và nhờ mua hộ 100.000 đồng Heroine, người đàn ông đó đồng ý rồi cầm tiền đi, khoảng 30 phút sau quay lại và đưa cho T 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu trắng buộc thắt nút. Sau đó đến 20 giờ 30 phút cùng ngày khi T đang trên đường về nhà đến khu vực bản P H, xã P H thì bị tổ công tác Công an huyện M C phát hiện bắt quả tang thu giữ trong tay phải của T 01 gói Heroine có khối lượng 0,226 gam. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng.
Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 31/8/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M C xác định gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột nén màu trắng đục nghi là Heroine thu giữ của L V T có khối lượng 0,226 gam. Trích mẫu gửi giám định 0,054 gam. Vật chứng còn lại 0,172 gam.
Tại bản kết luận giám định số: 1203/KL-PC09 ngày 05/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận:
Khối lượng vật chứng thu giữ của L V T là 0,226 gam.
Mẫu chất bột màu trắng đục trích ra từ vật chứng thu giữ của L V T gửi giám định là chất ma tuý: Loại Heroine.
Tại bản cáo trạng số: 34/CT-VKSMC, ngày 18 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M C, tỉnh Điện Biên đã truy tố L V T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M C vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo T cả về tội danh và điều luật áp dụng. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo L V T từ 01 năm 04 tháng tù đến 01 năm 10 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Đối với 0,172 gam Heroine sau khi trừ mẫu giám định; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 phong bì niêm phong ban đầu. Là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và những vật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với người đàn ông mua ma túy hộ bị cáo, do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ, nên không có căn cứ để xác minh xử lý theo quy định pháp luật.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, do đó miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày lời bào chữa, đồng ý với quyết định truy tố của Viện kiểm sát về tội danh điều luật áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo luôn thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, gia đình bị cáo kinh tế rất khó khăn, bị cáo không có việc làm ổn định, là dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng sâu vùng xa, nơi có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội, miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo mức án khởi điểm như Kiểm sát viên đề nghị.
Ý kiến của bị cáo tại phiên tòa giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, nhất trí với lời bào chữa của người bào chữa cho bị cáo, không có ý kiến gì thay đổi bổ sung, bị cáo xin được miễn án phí, lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo L V T khai nhận toàn bộ hành vi của mình cụ thể. Ngày 30/8/2022 bị cáo đi bộ từ nhà sang bản P H tìm mua ma túy để sử dụng, đến nơi bị cáo gặp trao đổi nhờ một người đàn ông mua hộ được 1 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy bị cáo đi về nhà, trên đường về thì bị tổ công tác Công an huyện M C phát hiện bắt quả tang bị cáo L V T có hành vi tàng trữ trái phép 0,226 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân. Lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố của Viện kiểm sát huyện M C theo tội danh và điều luật đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét và thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
" 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm :
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam"
[2] Xét về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cho thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và thuộc trường hợp nghiêm trọng. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo bị Nhà nước nghiêm cấm nếu bị phát hiện sẽ bị xử lý rất nghiêm khắc. Đồng thời, ma túy còn là nguyên nhân làm suy kiệt giống nòi, gia đình tan vỡ, kinh tế gia đình khánh kiệt, bên cạnh đó, còn làm gia tăng các loại tội phạm khác. Song, bị cáo vẫn bất chấp tất cả coi thường kỷ cương phép nước cố tình mua ma túy về tàng trữ sử dụng.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự trị an trên địa bàn huyện. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp và là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình đã gây ra.
[3] Xét về nhân thân; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo L V T sinh ra và lớn lên được bố mẹ nuôi dưỡng, đi học hết lớp 5/12 sau đó nghỉ học ở phụ giúp gia đình lao động sản xuất, đến tuổi trưởng thành xây dựng gia đình riêng và có 02 con. Trong cuộc sống do không chịu rèn luyện bản thân tu trí làm ăn lương thiện, cùng vợ con lao động sản xuất để phát triển kinh tế gia đình, làm gương cho các con noi theo, bị cáo chỉ thích đua đòi bạn bè lao vào con đường nghiện chất ma túy , để thỏa mãn cho nhu cầu bản thân bị cáo cố tình tìm mua ma túy về tàng trữ để sử dụng bản thân, bị cáo bản thân tuy chưa có tiền án, tiền sự nhưng bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy lâu năm. Do vậy cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo khi quyết định hình phạt. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự. Vậy khi quyết định hình phạt HĐXX cần xét, trong cuộc sống việc tuân thủ pháp luật, nhân thân, khối lượng ma túy và hành vi mà bị cáo đã thực hiện để áp dụng một hình phạt tương xứng với tính chất mức độ bị cáo đã gây ra. Như vậy đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp cần được xem xét chấp nhận. những đề nghị của người bào chữa cho bị cáo là cơ sở xem xét chấp nhận. Do đó cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.
[4] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh về tài sản của gia đình bị cáo do Cơ quan CSĐT Công an huyện M C xác lập, gia đình bị cáo kinh tế rất khó khăn. Hơn nữa, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, xét thấy hoàn cảnh gia đình của bị cáo gặp nhiều khó khăn, thu nhập chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo là phù hợp.
[5] Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Đối với 0,172 gam Heroine sau khi trừ mẫu giám định; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 phong bì niêm phong ban đầu, là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và những vật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với người đàn ông mua ma túy hộ bị cáo, do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ, nên không có căn cứ để xác minh xử lý theo quy định pháp luật. Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa bị cáo xin được miễn án phí, do đó cần miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
[7] Xét về hành vi và các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M C và Viện Kiểm sát nhân dân huyện M C, Điều tra viên, Kiểm sát viên, từ khi khởi tố vụ án, quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đảm bảo về hình thức, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
1. Tuyên bố: Bị cáo L V T phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Xử phạt bị cáo L V T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, ngày 31/8/2022.
2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong vật chứng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M C, tỉnh Điện Biên; 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 0,172 gam Heroine; 01 mảnh nilon màu trắng và 01 phong bì niêm phong niêm phong vật chứng ban đầu.
Số vật chứng trên đã được niêm phong và bàn giao theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Công an huyện M C với Chi cục thi hành án dân sự huyện M C vào ngày 19/10/2022.
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 23/11/2022.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (loại Heroine) số 08/2022/HS-ST
Số hiệu: | 08/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Chà - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về