Bản án về tội tàng trữ, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 28/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 28/2023/HS-ST NGÀY 28/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2023/HSST ngày 23/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2023/QĐXXST-HS ngày 10/11/2023, đối với:

- Các bị cáo:

1. Nguyễn Bi B, sinh năm 2003 tại tỉnh P. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở hiện tại: Thôn Đ, xã H, huyện P, tỉnh P. Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 07/12. Cha Nguyễn Hữu K. sinh năm: 1978, mẹ Nguyễn Thị D, sinh năm 1979. Vợ, con: Chưa có. Anh, chị, em: có 01 anh. Tiền án, tiền sự: Chưa có. Nhân thân: Ngày 28/6/2020 bị Công an huyện P xử phạt hành chính số tiền 1.750.000 đồng về hành vi hủy hoại tài sản. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện P từ ngày 19/5/2023 đến nay, bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

2. Lưu Quốc T, sinh năm 2004, tại tỉnh P. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở hiện tại: Thôn P, xã H, huyện P, tỉnh P. Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 05/12. Cha Lưu Quốc T1, sinh năm: 1969, mẹ Triệu Thị Mỹ T2, sinh năm 1977. Vợ, con: Chưa có. Anh, chị, em: Có 01 chị. Tiền án, tiền sự: Chưa có.

Nhân thân: Ngày 14/9/2021 bị Công an huyện P xử phạt hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 27/10/2021 bị Tòa án nhân dân huyện P xử phạt 06 tháng tù về tội hủy hoại tài sản. Ngày 02/12/2021 bị Tòa án nhân dân huyện P xử phạt 06 tháng tù về tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 01 năm tù, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/8/2022. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện P từ ngày 19/5/2023 đến nay, bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Thành K1 (tên gọi khác: B1), sinh ngày: 29/6/2008 tại tỉnh P. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở hiện tại: Tổ D, khu phố A, phường A, thành phố T. tỉnh P. Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 07/12. Cha Nguyễn Thành L, sinh năm: 1983, mẹ Hồ Thị L1. sinh năm: 1989. Vợ, con: Chưa có. Anh, Chị, em: Có 01 người chị. Tiền án, tiền sự: Chưa có. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại phường A, thành phố T từ ngày 02/9/2023 đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Nguyễn Thành K1: ông Nguyễn Thành L, sinh năm 1983. Địa chỉ: Tổ D, khu phố A, phường A, thành phố T, tỉnh P.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Thành L, sinh năm 1983.

Trú tại: Tổ D, khu phố, phường A, thành phố T, tỉnh P.

2. Ông Nguyễn Hữu K, sinh năm 1978 Trú tại: Thôn Đ, xã H, huyện P, tỉnh P Đều có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thành K1: Ông Ngô Văn T3 – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh P. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 19/5/2023. Nguyễn Bi B gọi điện thoại rủ Lưu Quốc T và Nguyễn Thành K1 sử dụng ma túy. T và K1 đồng ý. Sau đó, K1 điều khiển xe mô tô 78C1-xxxxx đến nhà B ở thôn Đ, xã H, huyện P, B nói K1 mua 300.000 đồng ma túy đá nên K1 dùng điện thoại liên hệ với 01 người có tài khoản facebook “Huỳnh T4” hỏi mua ma túy rồi K1 điều khiển xe chở B mang theo 01 nỏ thủy tinh đến khu vực đường số A, Phường H, thành phố T gặp 01 người không rõ danh tính. B đưa cho K1 300.000 đồng để K1 mua ma túy rồi mang đến nhà T ở thôn P, xã H, huyện P để tổ chức sử dụng. Khi đến nơi, B, K1 và T vào phòng ngủ của T. K1 lấy nỏ thủy tinh mang theo gắn chai nhựa có gắn 01 ống hút nhựa của T tạo thành bộ dụng cụ sử dụng ma túy rồi bỏ ma túy vừa mua vào nỏ thủy tinh và thay phiên nhau sử dụng. Sau khi tổ chức sử dụng xong. K1 cất nỏ thủy tinh vào trong tủ quần áo trong phòng ngủ của T.

Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, K1 chở B về nhà của B lấy xe mô tô 78E1-479.31 mang đến nhà của ông Nguyễn Quang V ở thôn R, xã H, thị xã Đ thế chấp với số tiền 10.000.000 đồng rồi K1 chở B đến nhà T mua ma túy sử dụng. Khi đến nơi. B bảo Toàn và K1 liên hệ mua ma túy. K1 liên hệ cho người quen hỏi giá ma túy và nói lại cho B và T rồi T liên hệ với 01 người tên “Trung Mặc T5” mua ma túy đá và 01 nỏ thủy tinh với giá 6.050.000 đồng, hẹn giao ma túy tại nhà của T. Khi người giao ma túy đến trước cửa nhà T thì B đi ra nhận 01 bì nilon chứa ma túy và 01 nỏ thủy tinh cầm vào nhà đưa cho K1 để kiểm tra chất lượng ma túy; K1 lấy nỏ thủy tinh gắn vào chai nước và cầm bịch ma túy vừa mua bỏ 01 ít ma túy vào nỏ thủy tinh rồi hút để kiểm tra chất lượng, còn bì nilon chứa phần ma túy còn lại K1 hàn kín lại và cất trong phòng ngủ của T. Thấy chất lượng ma túy tốt. K1 nói với B “được”, B đi ra đưa tiền cho người bán ma túy rồi cả 03 thay phiên nhau sử dụng. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày. Công an huyện P phối hợp với Công an xã H phát hiện, bắt quả tang T cùng với B và K1 đang tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, thu từ 01 túi nilon màu trắng, kích thước (8.7x6)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu A1); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy còn bám dính tinh thể màu vàng nâu (ký hiệu A2) và chất lỏng không màu trong chai nhựa (ký hiệu A); 01 nỏ thủy tinh bám dính tinh thể màu nâu trắng (ký hiệu A) và các dụng cụ dùng để tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại Bản kết luận giám định số 208/KL-KTHS ngày 22/5/2023 của Phòng K4 Công an tỉnh P kết luận: Tinh thể màu trắng (ký hiệu A1) trong bì nilon vuốt kín là ma túy Methamphetamine có khối lượng 9.754 gam; tinh thể màu vàng nâu bám dính trong đầu hình cầu ống thủy tinh trong suốt (ký hiệu A2) là ma túy Methamphetamine, vì lượng tinh thể màu vàng nâu bám dính ít nên không xác định được khối lượng.

Tại kết luận giám định số 1390/KL-KTHS ngày 14/7/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Chất lỏng không màu (ký hiệu A) bên trong chai nhựa trong suốt có tìm thấy chất ma túy, loại Methamphetamine, thể tích 250ml, nồng độ Methamphetamine là 0.002mg/l khối lượng của Methamphetamine trong 250ml mẫu là 0.0005ma.

Tại Bản kết luận giám định số 313/KL-KTHS ngày 14/7/2023 của Phòng K4 Công an tỉnh P kết luận: Tinh thể màu nâu trắng (ký hiệu A) bám dính trong đầu hình cầu của ống thủy tinh trong suốt là ma túy Methamphetamine có khối lượng 0.083 gam.

Quá trình điều tra, bị can Nguyễn Bi B, Lưu Quốc T và Nguyễn Thành K1 thành khẩn khai báo.

Vật chứng vụ án: 9.654 gam ma túy Methaphetamine; 01 túi nilon; 01 chai nhựa nhãn hiệu sting có nắp màu đỏ; 03 nỏ thủy tinh, trong đó có 1 nỏ thủy tinh gắn ống hút nhựa màu trắng tím; 04 cái kéo; 03 bật lửa; 01 cân tiểu ly; 01 ví màu đen xám bên trong có thẻ bảo hiểm mang tên Nguyễn Bi B và 2.825.500 đồng; 01 chai nhựa bị cắt phần đầu; 40 ống hút nhựa; 01 mã tấu dài 61cm; 01 điện thoại di động iphone 6S Plus màu bạc; 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ; 01 điện thoại di động Oppo A77t màu vàng; 01 xe mô tô 78C1-xxxxx.

Cáo trạng số 27/CT-VKSPH ngày 20/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố các bị cáo Nguyễn Bi B, Lưu Quốc T về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm a, b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự. Truy tố Nguyễn Bi B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm đ, g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo Lưu Quốc T, Nguyễn Thành K1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa:

Các bị cáo Nguyễn Bi B, Lưu Quốc T, Nguyễn Thành K1 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Hoà đã truy tố và khẳng định không bị oan sai.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thành L xin nhận lại xe mô tô biển kiểm soát 78C1-xxxxx.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích mức độ, hành vi phạm tội, tình tiết định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, giữ nguyên cáo trạng đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố các bị cáo Nguyễn Bi B, Lưu Quốc T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Các bị cáo Nguyễn Bi B, Lưu Quốc T, Nguyễn Thành K1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Hình phạt:

+ Áp dụng điểm a, b, c khoản 2 Điều 255; điểm đ, g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo Nguyễn Bi B. Xử phạt bị cáo Nguyễn Bi B từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng Điều 55 BLHS buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung, thời hạn tù của bị cáo tính ngày bắt tạm giữ, tạm giam.

+ Áp dụng điểm a, b, c khoản 2 Điều 255; điểm g khoản 2 Điều 249: điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo Lưu Quốc T. Xử phạt bị cáo Lưu Quốc T từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng Điều 55 BLHS buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung, thời hạn tù của bị cáo tính ngày bắt tạm giữ, tạm giam.

+ Áp dụng g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1,2 Điều 51, Điều 90, 91, 101 BLHS đối với bị cáo Nguyễn Thành K1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành K1 từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù của bị cáo tình ngày bắt thi hành án.

- Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS), Điều 47, 48 BLHS: Trả lại cho ông Nguyễn Thành L 01 xe mô tô 78C1-xxxxx vì tài sản này là tài sản hợp pháp của ông L, việc bị cáo K1 dùng vào việc phạm tội, ông L không biết; Trả lại cho bị cáo Nguyễn Bi B 01 ví màu đen xám bên trong có thẻ bảo hiểm mang tên Nguyễn Bi B và 2.825.500 đồng; Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động iphone 6S Plus màu bạc; 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ; 01 điện thoại di động Oppo A77t vì dùng vào việc phạm tội. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng còn lại vì không còn giá trị sử dụng, gồm: 9.654 gam ma túy Methaphetamine; 01 túi nilon; 01 chai nhựa nhãn hiệu sting có nắp màu đỏ; 03 nỏ thủy tinh, trong đó có 1 nỏ thủy tinh gắn ống hút nhựa màu trắng tím; 04 cái kéo; 03 bật lửa; 01 cân tiểu ly.

- Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thành K1 tranh luận: Thống nhất về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo. Bị cáo K1 có nhân thân tốt, không phải là người chủ động trong việc tàng trữ trái phép chất ma túy. Khi phạm tội, bị cáo K1 14 tuổi 10 tháng 20 ngày, nhận thức về pháp luật rất thấp, đề nghị HĐXX xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như ý kiến của Kiểm sát viên và cho bị cáo được hưởng án treo.

Các bị cáo thống nhất về tội danh, điều luật áp dụng và không tranh luận.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tranh luận.

Kiểm sát viên tranh luận với người bào chữa: Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên ý kiến về mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thành K1.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Được hưởng mức án nhẹ nhất và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên HĐXX không xem xét.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng vụ án, kết luận giám định về ma túy nên đủ cơ sở kết luận: Ngày 19/5/2023, tại nhà của Lưu Quốc T thuộc thôn P, xã H, huyện P, tỉnh P. Nguyễn Bi B, Lưu Quốc T, Nguyễn Thành K1, sinh ngày 29/6/2008 cùng nhau 02 lần tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thì bị Công an huyện P phối hợp với Công an xã H bắt quả tang cùng với tang vật thu giữ 9.8370005 gam ma túy loại Methamphetamine.

Đối với hành vi của bị cáo Nguyễn Bi B: Bị cáo đã có hành vi tìm người sử dụng ma túy (gọi điện thoại rủ Lưu Quốc T, Nguyễn Thành K2 tuổi 10 tháng 20 ngày cùng nhau sử dụng ma túy), cung cấp chất ma túy (dùng số tiền 6.350.000 đồng của mình để mua ma túy) và chuẩn bị công cụ vào việc sử dụng trái phép chất ma túy (mang theo dụng cụ đến nhà T để cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy) và sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội (Bị cáo yêu cầu K1 liên hệ mua ma túy và cùng đến khu vực đường số A, Phường H, thành phố T để nhận ma túy. Sau khi sử dụng hết số ma túy đã mua 300.000 đồng, do có nhu cầu muốn chơi tiếp nên bị cáo yêu cầu K1 liên hệ với người bán ma túy để mua ma túy sử dụng tiếp vì giá cao nên không mua. Sau khi T đặt được ma túy với giá rẻ hơn thì bị cáo Bi B yêu cầu K1 thử ma túy để xác định ma túy có chất lượng hay không khi ma túy được giao đến nhà T). Do đó hành vi phạm tội của Nguyễn Bi B thuộc tình tiết định khung tăng nặng theo điểm a, b, c khoản 2 Điều 255 BLHS: “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Đối với 02 người trở lên” và “Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi”. Ngoài ra hành vi phạm tội của Nguyễn Bi B thuộc tình tiết định khung tăng nặng theo điểm đ, g khoản 2 Điều 249 BLHS: “Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội” và “Methamphetamine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”.

Đối với hành vi của Lưu Quốc T: Bị cáo đã có hành vi chuẩn bị địa điểm để sử dụng 02 lần trái phép ma túy. Bị cáo Nguyễn Bi B rủ Nguyễn Thành K1 đến nhà Lưu Quốc T sử dụng ma túy. T biết rõ K1 đến để sử dụng ma túy. Do đó hành vi phạm tội của Lưu Quốc T thuộc tình tiết định khung tăng nặng theo điểm a, b khoản 2 Điều 255 BLHS: “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Đối với 02 người trở lên” và do Nguyễn Thành K1 là người dưới 18 tuổi (sinh ngày 29/6/2008) nên hành vi phạm tội của Lưu Quốc T còn thuộc tình tiết định khung tăng nặng theo điểm c khoản 2 Điều 255 BLHS: “Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi”. Bị cáo còn phải liên đới chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng 9.8370005 gam ma túy loại Methamphetamine bị Công an huyện P thu giữ. Do đó hành vi phạm tội của Lưu Quốc T thuộc tình tiết định khung tăng nặng theo điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS: “Methamphetamine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”.

Đối với hành vi của Nguyễn Thành K1: Bị cáo K1 có các hành vi phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” nhưng khi thực hiện hành vi phạm tội này K1 mới 14 tuổi 10 tháng 20 ngày nên căn cứ khoản 2 Điều 12 BLHS nên K1 chưa đủ tuổi trách nhiệm hình sự về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là có căn cứ. Sau khi sử dụng ma túy xong, đến khoảng 19 giờ thì bị Công an huyện P phối hợp với Công an xã H bắt quả tang cùng với tang vật thu giữ 9.8370005 gam ma túy loại Methamphetamine. Do đó hành vi của bị cáo Nguyễn Thành K1 phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thuộc tình tiết định khung tăng nặng theo điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS: “Methamphetamine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam ”

[3] Về khung hình phạt: Khoản 2 Điều 255 BLHS có khung hình phạt từ 07 năm đến 15 năm tù và khoản 2 Điều 249 BLHS có khung hình phạt từ 05 đến 10 năm tù. Bị cáo Nguyễn Bi B là người chủ động rủ các bị cáo còn lại sử dụng ma túy, cung cấp ma túy cho các bị cáo khác sử dụng, sử dụng công cụ phương tiện sử dụng trái phép chất ma túy, tổ chức sử dụng ma túy nhiều lần, đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi nên là người đầu vụ, sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội nên có mức án cao nhất. Bị cáo Lưu Quốc T là người sử dụng địa điểm để tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý và là người liên hệ mua ma túy để sử dụng trái phép ma túy nên có vai trò đứng sau bị cáo B, có mức án thấp hơn bị cáo B. Bị cáo K1 mới 14 tuổi 10 tháng 20 ngày nhưng là người thực hành tích cực (Liên hệ mua và nhận ma túy tại khu vực đường số A, Phường H, thành phố T. Sau khi sử dụng hết ma túy, K1 đặt mua ma túy và thử chất lượng ma túy theo đề nghị của B). Tuy nhiên khi K1 phạm tội mới 14 tuổi 10 tháng 20 ngày nên áp dụng khoản 2 Điều 101 BLHS. Mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với bị cáo không quá ½ mức phạt tù điều luật quy định, tức từ 2 năm 6 tháng đến 05 năm tù.

[4] Bị cáo Nguyễn Bi B, Lưu Quốc T, Nguyễn Thành K1 là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo nhận thức được mọi hành vi liên quan đến ma túy là vi phạm pháp luật, là nguyên nhân có thể gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác nhưng do muốn thỏa mãn nhu cầu sử dụng cho cá nhân nên cố ý thực hiện. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm đối với các bị cáo, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi phạm tội. các bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo B, T được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Riêng bị cáo K1 được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS.

[6] Đối với ý kiến đề nghị của người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thành K1 được hưởng án treo. Hội đồng xét xử không chấp nhận như đã phân tích như trên.

[7] Vật chứng: Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về xử lý vật chứng là có căn cứ. HĐXX thống nhất xử lý vật chứng như đề nghị của Kiểm sát viên.

[8] Các vấn đề khác:

[8.1] Bị cáo Nguyễn Thành K1 cùng với Nguyễn bi B2, Lưu Quốc T cùng tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo K1 mới 14 tuổi 10 tháng 20 ngày. Căn cứ khoản 2 Điều 12 BLHS, bị cáo K3 chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P, Viện kiểm sát nhân dân huyện P không khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với bị cáo K1 là đúng quy định.

[8.2] Các bị cáo Nguyễn Bi B. Lưu Quốc T, Nguyễn Thành K1 khai mua ma túy của người có tên Trung Mặc T5 và Huỳnh T4 nhưng không xác định được danh tính của 02 người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P, Viện kiểm sát nhân dân huyện P không có căn cứ xử lý là đúng quy định.

[9] Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí Tòa án; Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Bi B, Lưu Quốc T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo Nguyễn Thành K1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về trách nhiệm hình sự:

2.1. Áp dụng điểm a, b, c khoản 2 Điều 255; điểm đ. g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Bi B 08 (tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội bị cáo phải chấp hành là 13 (mười ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 19/5/2023).

2.2. Áp dụng điểm a, b, c khoản 2 Điều 255; điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lưu Quốc T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy ” và 05 (năm) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội bị cáo phải chấp hành là 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 19/5/2023).

2.3. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 90, Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành K1 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bắt thi hành án.

3. Vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự:

- Trả lại cho ông Nguyễn Thành L 01 xe mô tô 78C1-xxxxx. trả lại cho bị cáo Nguyễn bi B2 01 ví màu đen xám bên trong có thẻ bảo hiểm mang tên Nguyễn Bi B và 2.825.500 đồng.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động iphone 6S Plus màu bạc; 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ; 01 điện thoại di động Oppo A77t.

- Tịch thu tiêu hủy các vật chứng còn lại vì không còn giá trị sử dụng, gồm: 9,654 gam ma túy Methaphetamine; 01 túi nilon; 01 chai nhựa nhãn hiệu sting có nắp màu đỏ; 03 nỏ thủy tinh, trong đó có 1 nỏ thủy tinh gắn ống hút nhựa màu trắng tím; 04 cái kéo; 03 bật lửa; 01 cân tiểu ly.

(Các vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/10/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P với Chi cục Thi hành án dân sự huyện P).

4. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Buộc các bị cáo Nguyễn Bi B, Lưu Quốc T, Nguyễn Thành K1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trung hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 28/2023/HS-ST

Số hiệu:28/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Hoà - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về