Bản án về tội tàng trữ, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 23/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 23/2022/HS-ST NGÀY 20/12/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 12 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2022/HSST, ngày 14 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Xuân H (Tên gọi khác: B), Sinh ngày 28/6/1995 tại tỉnh G;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và trú tại: Tổ 4, thị trấn K, huyện M, tỉnh G. Nghề nghiệp: Làm nông. Học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông Lê Kim T - Sinh năm 1974 và bà Đặng Thị Thanh T - Sinh năm 1975; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ 02 trong gia đình.

Tiền sự: 02 tiền sự: ngày 10/11/2015 bị Công an huyện M, tỉnh G ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau với số tiền 500.000 đồng (bị cáo chưa nộp phạt); Ngày 18/9/2019, bị Công an huyện M, tỉnh G ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau với số tiền 750.000 đồng (bị cáo chưa nộp phạt);

Tiền án: 01 tiền án, Ngày 08/5/2020, bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh G xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản và 18 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Bản án số 03/2020/HSST, ngày 08/5/2020.

Bị cáo tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/7/2022 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Nguyễn Thị Thanh H - Sinh năm 2004, trú tại: Thôn 6 xã A, huyện K, tỉnh G (Vắng mặt)

- Người làm chứng:

+ Bà Đặng Thị Thanh T - Sinh năm 1975, trú tại: Tổ, thị trấn K, huyện M, tỉnh G (Có mặt).

+ Bà Nguyễn Thị Bạch L - Sinh năm 1976, trú tại: Tổ, thị trấn K, huyện M, tỉnh G (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 25/01/2022, Lê Xuân H chấp hành xong án phạt tù về địa phương sinh sống. Khi chấp hành án tại Trại giam Gia Trung, qua tìm hiểu bạn tù Lê Xuân H biết tại khu vực vòng xoay Phù Đổng thuộc phường Phù Đổng, thành phố Pleiku, tỉnh G có đối tượng lái xe ôm bán ma túy.

Lúc 18 giờ ngày 18/7/2022, Lê Xuân H đón xe ô tô khách từ huyện M đến thành Phố Pleiku để mua ma túy đá về sử dụng. Đến khoảng 18 giờ 45 phút cùng ngày, khi đến khi vực vòng xoay Phù Đổng thuộc phường Phù Đổng, thành Phố Pleiku thì gặp đối tượng lái xe ôm (chưa xác định được nhân thân, lai lịch). Lúc này Lê Xuân H hỏi mua ma túy đá thì đối tượng này nói “mua bao nhiêu” thì Lê Xuân H trả lời“mua 2.000.000đồng” đồng thời đưa 2.000.000 đồng rồi đứng chờ một lúc thì đối tượng lái xe ôm quay lại đưa cho Lê Xuân H 02 gói ni lon bên trong chứa ma túy đá cùng 01 ống thủy tinh dụng cụ để sử dụng ma túy, Lê Xuân H cất dấu ma túy và ống thủy tinh vào túi quần mang về nhà ở M độ chế bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Ngày 21/7/2022 Lê Xuân H mang 02 gói ma túy đá cùng bộ sử dụng ma túy rồi rủ Nguyễn Thị Thanh H1 đến thuê phòng 111 tại khách sạn H thuộc tổ, thị trấn K, huyện M chơi. Đến khách sạn, H lấy ra một ít ma túy đá rủ H1 cùng sử dụng thì H1 đồng ý, số ma túy đá còn lại H cất dấu trong túi quần. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M phát hiện bắt quả tang Lê Xuân H và Nguyễn Thị Thanh H1 cùng tang vật.

Tại Kết luận giám định số: 487 ngày 28/7/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh G kết luận: Chất màu trắng dạng tinh thể trong 02 gói ni lon gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine khối lượng 2,1194 gam; Chất màu nâu, trắng bám dính trong ống thủy tinh uốn cong và phình to gắn trên nắp chai nhựa là chất ma túy loại Methamphetamine nhưng do lượng mẫu ít không cân được khối lượng.

Tại bản Cáo trạng số 23/CT/VKS, ngày 10 tháng 11 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh G đã truy tố bị cáo Lê Xuân H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M giữ nguyên Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Xuân H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 255; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Xuân H từ 12 đến 18 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" và từ 36 đến 42 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự: Hình phạt chung bị cáo Lê Xuân H phải chấp hành cho cả hai tội là từ 4 năm đến 5 năm tù.

Hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Về xử lý vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy thu giữ được trong vụ án Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Ý kiến của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu.

Lời nói sau cùng, bị cáo rất ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Điều tra viên Công an huyện M, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh G trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng nêu. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, vì vậy có đủ cơ sở xác định hành vi phạm tội của bị cáo như sau: Vào khoảng 18 giờ 45 phút ngày 18 tháng 7 năm 2022 Lê Xuân H đi đến khi vực vòng xoay Phù Đổng thuộc phường Phù Đổng, thành Phố Pleiku mua của đối tượng lái xe ôm (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) 02 gói ma túy đá loại Methamphetamine, tổng khối lượng 2,1194 gam với giá 2.000.000 đồng, đồng thời đối tượng này đưa cho H 01 ống thủy tinh là dụng cụ để sử dụng ma túy. Sau đó Lê Xuân H cất dấu ma túy và ống thủy tinh vào túi quần rồi đi về nhà độ chế bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Ngày 21/7/2022 Lê Xuân H mang 02 gói ma túy đá cùng bộ sử dụng ma túy cùng Nguyễn Thị Thanh H1 đến thuê phòng 111 tại khách sạn H thuộc tổ , thị trấn K, huyện M thì H lấy ra một ít ma túy đá cùng H1 sử dụng, số ma túy đá còn lại H cất dấu trong túi quần. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M phát hiện bắt quả tang Lê Xuân H và Nguyễn Thị Thanh H1 sử dụng ma túy cùng tang vật.

[3] Về tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Đồng thời ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương. Chất ma túy là chất gây nghiện, có tính chất kích thích thần kinh, tác hại lớn đến không chỉ sức khỏe con người mà nó còn là nguyên nhân gây phát sinh các loại tội phạm khác trong xã hội.

Bị cáo Lê Xuân H là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo đủ nhận thức được Methamphetamine là dạng ma túy tổng hợp, là chất Nhà nước cấm mua bán, trao đổi, sử dụng, nhưng vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, thể hiện thức coi thường pháp luật. Bị cáo đã mua 02 gói ma túy đá cùng bộ sử dụng ma túy rồi rủ Nguyễn Thị Thanh H1 cùng sử dụng. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh G truy tố bị cáo Lê Xuân H về các tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo đang trong thời gian thử thách đối Bản án số 03/2020/HSST, ngày 08/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh G mà lại tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo Lê Xuân H quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Bị cáo đã vi phạm pháp luật hình sự nên phải chịu hình phạt theo quy định. Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị của Kiểm sát viên áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo, đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm, thu nhập ổng định và không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

[7] Đối với Nguyễn Thị Thanh H1, Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình điều tra Nguyễn Thị Thanh H1 không biết Lê Xuân H mua ma túy về sử dụng, không trao đổi, bàn bạc về việc sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó hành vi của Nguyễn Thị Thanh H1 không đồng phạm với Lê Xuân H nên Công an huyện M căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ: Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Thị Thanh H1 số tiền 1.500.000 đồng là có căn cứ.

[8] Đối với đối tượng lái xe ôm bán ma túy cho bị can Lê Xuân H tại khu vực vòng xoay Phù Đổng thuộc phường Phù Đổng, thành phố Pleiku, tỉnh G. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân lai lịch của đối tượng này. Vì vậy, khi nào có đủ căn cứ sẽ tiến hành xử lý theo quy định của pháp luật là có căn cứ.

[9] Về vật chứng vụ án:

- Chất màu trắng dạng tinh thể (loại Methamphetamine) trong 02 gói ni lon còn lại sau giám định có khối lượng 1,9317 gam và vỏ bao gói được niêm phong trong 01 bì công văn, có đặc điểm: mặt trước ghi “01” và “số 487/PC09, ngày 28 tháng 7 năm 2022”, tại mép dán mặt sau có các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung: “CÔNG AN TỈNH GIA LAI * PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Minh T, Nguyễn Văn Q và Đặng Đức Tr.

- 01 chai nhựa, nắp màu vàng có 02 lỗ, 01 lỗ gắn ống nhựa màu trắng; 01 lỗ gắn ống thủy tinh có đầu uống cong, phình to (hình cầu) và vỏ bao gói được niêm phong trong 01 bì công văn, có đặc điểm: mặt trước ghi “02” và “số 487/PC09, ngày 28 tháng 7 năm 2022”, tại mép dán mặt sau có các hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung: “CÔNG AN TỈNH GIA LAI * PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Minh T, Nguyễn Văn Q và Đặng Đức Tr.

- 03 (ba) đoạn ống nhựa; 01 (một) ví da; 01 (một) cái kéo bằng kim loại và 01 cái quẹt; 01 (một) gói thuốc lá loại “ EAGLE”.

Đây là dạng ma túy tổng hợp loại Methamphetamine, là chất Nhà nước cấm mua bán, trao đổi, sử dụng và các dụng cụ bị cáo Lê Xuân H sử dụng vào việc tàng trữ, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên cần tịch thu, tiêu hủy, Đối với tiền Việt Nam: 1.900.000 đồng gồm: 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng; 07 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng. Quá trình điều tra xác định số tiền 1.900.000 đồng gồm: 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng; 07 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng là tài sản hợp pháp của bà Đặng Thị Thanh T là mẹ đẻ của Lê Xuân H. Cơ quan CSĐT Công an huyện M trả lại số tiền 1.900.000 đồng cho bà T là có căn cứ.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Khoản 1 Điều 255; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lê Xuân H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Xuân H 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 42 (Bốn mươi hai) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự về tổng hợp hình phạt: Hình phạt chung bị cáo Lê Xuân H phải chấp hành cho hai tội là 72 (Bảy mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tam giam là ngày 21/7/2022.

2. Hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 255 của Bộ luật hình sự: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Lê Xuân H.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy:

- Chất màu trắng dạng tinh thể (loại Methamphetamine) trong 02 gói ni lon còn lại sau giám định có khối lượng 1,9317 gam và vỏ bao gói được niêm phong trong 01 bì công văn, có đặc điểm: mặt trước ghi “01” và “số 487/PC09, ngày 28 tháng 7 năm 2022”, tại mép dán mặt sau có các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung: “CÔNG AN TỈNH GIA LAI * PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Minh T, Nguyễn Văn Q và Đặng Đức T.

- 01 chai nhựa, nắp màu vàng có 02 lỗ, 01 lỗ gắn ống nhựa màu trắng; 01 lỗ gắn ống thủy tinh có đầu uống cong, phình to (hình cầu) và vỏ bao gói được niêm phong trong 01 bì công văn, có đặc điểm: mặt trước ghi “02” và “số 487/PC09, ngày 28 tháng 7 năm 2022”, tại mép dán mặt sau có các hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung: “CÔNG AN TỈNH GIA LAI * PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Minh T, Nguyễn Văn Q và Đặng Đức Tr.

- 03 (ba) đoạn ống nhựa; 01 (một) ví da; 01 (một) cái kéo bằng kim loại và 01 cái quẹt; 01 (một) gói thuốc lá loại “ EAGLE”.

(Theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 28/11/2022 giữa Công an huyện M với Chi cục Thi hành án dân sự huyện M).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án:

Buộc bị cáo Lê Xuân H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào Ngân sách Nhà nước.

5. Thời hạn kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (20/12/2022) bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh G xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với người vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo tính kể từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 23/2022/HS-ST

Số hiệu:23/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Prông - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về