Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy số 248/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 248/2023/HS-ST NGÀY 05/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI, MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05/7/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 260/2023/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 295/2023/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 6 năm 2023, đối với các bị cáo:

1. Trần C T - Sinh năm 1990; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: phố B, phường Q, thành phố T, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa:

9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần C N và bà Phạm Thị V; có vợ: Bùi Thị T và có 03 con (con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2021); tiền án, tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ ngày 13/3/2023 đến ngày 23/3/2023 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ C an thành phố T, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Bá S - Sinh năm 1995; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: phố H, phường Q, thành phố T, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Bá T (đã chết) và bà: Nguyễn Thị N; vợ: Nguyễn Thị H và có 02 con (con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2021); tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ ngày 13/3/2023 đến ngày 22/3/2023 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ C an thành phố T, có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Viết C - Sinh năm 1989; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: phố P, phường Q, thành phố T, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thăng L và bà Đào Thị B; có vợ: Nguyễn Thị V và có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không; là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam bị đình chỉ sinh hoạt đảng ngày 05/6/2023; Bị bắt tạm giữ ngày 14/3/2023 đến ngày 23/3/2023 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ C an thành phố T, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Bá B - Sinh năm 1983;

Trú tại: phố H, phường Q, thành phố T, tỉnh T, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20h15’ ngày 13/3/2023, tại Trạm bơm phố Quang Trung, phường Quảng Tâm, thành phố T, tổ công tác phòng PK02 C an tỉnh T phối hợp với C an phường Quảng Tâm, thành phố T và Đội CSĐTTP về ma túy C an thành phố T phát hiện Nguyễn Bá S điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Futurre màu xanh, biển kiểm soát 36B5 – xxxxx có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra S tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói nilong màu xanh, kích thước khoảng (8 x 13)cm bên trong có chứa 09 gói giấy đều có kích thước khoảng (1 x 5)cm, trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng, S khai nhận đây là ma túy, loại heroin. Tiến hành điều tra S khai nhận: Trưa ngày 13/3/2023, Nguyễn Bá S gặp Trần C T ở khu vực cầu Thống Nhất, phố 6, phường Quảng Phú, thành phố T, biết T có ma túy nên S xin để sử dụng. T và S thống nhất, S đi bán ma túy cho T, sau khi bán xong T cho S ma túy. S đồng ý nên T đưa cho S 01 gói nilong màu xanh bên trong chứa 09 gói giấy, trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng là heroin để S đi bán, nhưng chưa bán được thì bị bắt quả tang.

Sau khi biết việc S bị bắt nên cùng ngày, Trần C T đến Cơ quan cảnh sát điều tra C an thành phố T đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình và giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 điện thoại di động VIVO Y35.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần C T thu giữ:

- 01 cân điện tử màu trắng có dòng chữ “Electronic Scale”;

- 01 túi nilong kích thước khoảng (4 x 4)cm bên trong chứa 03 gói giấy, mỗi gói có kích thước khoảng (0,5 x 1,5)cm, bên trong mỗi gói chứa cục màu trắng;

- 01 túi nilong màu đen kích thước khoảng (10 x 10)cm, bên trong túi chứa 46 gói giấy, kích thước mỗi gói khoảng (1 x2)cm, bên trong mỗi gói chứa cục màu trắng.

Về nguồn gốc số ma túy Trần C T khai nhận: Sáng ngày 13/3/2023, T nhờ Nguyễn Viết C mua 01 gói heroin giá 4.700.000đ, sau đó T mang về nhà chia thành 58 gói cất giấu ở tủ giầy, mục đích bán kiếm lời. Trưa ngày 13/3/2023 T đưa cho S 09 gói ma túy nhờ S đi bán, số ma túy còn lại T cất giấu để bán thì bị C an khám xét thu giữ.

Căn cứ vào lời khai của T, Cơ quan CSĐT tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Viết C thu giữ:

- Trên mặt bàn bên trái cửa ra vào của phòng ngủ thứ nhất 01 gói giấy kích thước khoảng (2 x2)cm bên trong chứa cục màu trắng và 01 gói giấy bạc kích thước khoảng (0,5 x 1)cm bên trong chứa cục màu trắng.

- Thu giữ trên ô thoáng trước cửa ra vào phòng bếp 01 túi nilong màu trắng viền đỏ, kích thước khoảng (8 x 12)cm bên trong chứa 09 gói giấy, kích thước mỗi gói khoảng (1 x 2)cm đều chứa cục màu trắng. Theo C khai đây là ma túy, loại heroin mục đích C tàng trữ để sử dụng.

Quá trình điều tra, C khai nhận: Do nghiện ma túy nên khoảng 8h ngày 11/3/2023, C một mình đến khu vực Bệnh viện H, phường Đông H, thành phố T gặp, mua của một người nam thanh niên, C không biết tên, địa chỉ cụ thể 01 túi ma túy giá 2.500.000đ sau đó đem về nhà, C lấy ra một ít để sử dụng, số ma túy còn lại C chia thành 11 gói nhỏ cất giấu mục đích để sử dụng dần thì bị bắt giữ.

Tại Bản kết luận giám định số 1143/KL-KTHS ngày 20/3/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh T, kết luận:

- Phong bì mặt trước ghi S: Chất cục bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,484gam, loại Heroin.

- Phong bì mặt trước ghi vụ Trần C T:

+ Các cục màu trắng đựng trong 03 gói giấy niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,081g, loại heroin;

+ Các cục bột màu trắng đựng trong 46 gói giấy niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,564gam, loại heroin.

- Phong bì mặt trước ghi khám xét Nguyễn Viết C:

+ Cục màu trắng đựng trong 01 gói giấy niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,207 gam, loại heroin;

+ Cục màu trắng đựng trong 01 gói giấy bạc niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,087g, loại heroin;

+ Các cục màu trắng đựng trong 09 gói giấy niêm phong gửi giám định là ma túy có tổng khối lượng 0,977g, loại heroin.

Trần C T khai nguồn gốc số ma túy của T là do T nhờ Nguyễn Viết C mua. Tuy nhiên Nguyễn Viết C không thừa nhận việc mua hộ ma túy cho T, ngoài lời khai của T không còn tài liệu nào chứng minh việc C mua hộ ma túy cho T, do đó không có cơ sở để buộc C chịu trách nhiệm hình sự về tổng khối lượng ma túy của T.

Tại bản cáo trạng số: 209/CT-VKS ngày 30/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá đã truy tố Trần C T, Nguyễn Bá S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 BLHS; Bị cáo Nguyễn Viết C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện VKS vẫn giữ nguyên quyết định truy tố; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 251; Điều 58 BLHS đối với Trần C T, Nguyễn Bá S; điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS đối với Nguyễn Viết C; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS đối với các bị cáo; Khoản 2 Điều 51 BLHS đối với Trần C T, Nguyễn Viết C; Về hình phạt VKS đề nghị xử phạt:

- Trần C T mức án từ 36 - 42 tháng tù;

- Nguyễn Bá S mức án từ 30 - 36 tháng tù;

- Nguyễn Viết C mức án từ 18 - 24 tháng tù;

Ngoài ra VKS còn đề nghị xử lý vật chứng và buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tranh luận gì với đại diện VKS.

Lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hộị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, tuy tố, xét xử đã được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại gì.

[2] Về hành vi phạm tội:

Trưa ngày 13/3/2023, Nguyễn Bá S gặp Trần C T ở khu vực cầu Thống Nhất, phố 6, phường Quảng Phú, thành phố T hỏi xin ma túy để sử dụng. T đồng ý nhưng hai bên thống nhất, S đi bán ma túy cho T, sau khi bán xong T sẽ cho S ma túy, đồng thời T đưa cho S 01 gói nilong màu xanh bên trong chứa 09 gói giấy, trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng có tổng khối lượng 0,484gam, loại Heroin mang đi bán nhưng chưa bán được thì bị phát hiện bắt quả tang hồi 20h15’ ngày 13/3/2023 tại Trạm bơm phố Quang Trung, phường Quảng Tâm, thành phố T. Khám xét nơi ở của Trần C T cơ quan C an còn thu giữ 1,645g ma túy, loại heroin mục đích T cất dấu để bán kiếm lời.

Trên cơ sở lời khai của Trần C T, cơ quan điều tra đã khám xét nơi ở của Nguyễn Viết C và thu giữ 1,271g ma túy, loại heroin, C cất dấu mục đích để sử dụng.

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi phạm tội nêu trên của Trần C T, Nguyễn bá S có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS; Hành vi của bị cáo Nguyễn Viết C có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS như cáo trạng VKSND thành phố T truy tố là đúng.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hiện nay tệ nạn ma túy đang là hiểm họa cho toàn xã hội, là nguyên nhân làm suy thoái kinh tế, là một trong những tác nhân làm lây lan căn bệnh HIV/AIDS, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của giống nòi. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải xử lý nghiêm minh.

Đây là vụ án có nhiều bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội, bản thân các bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vì muốn kiếm tiềm một cách nhanh nhất và để thỏa mãn nhu cầu cá nhân của mình các bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội. Trong vụ án này Trần C T và Nguyễn Bá S đồng phạm với nhau về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, trong đó T là người chuẩn bị ma túy để S mang đi bán, S tham gia với vai trò thực hành, nhưng trọng lượng ma túy T phải chịu trách nhiệm nhiều hơn nên T có vai trò đầu và mức hình phạt của T phải cao hơn Nguyễn Bá S. Mặc dù Trần C T khai nguồn gốc ma túy là nhờ Nguyễn Viết C mua, nhưng C không thừa nhận, ngoài lời khai của T không có tài liệu chứng cứ nào chứng minh C đồng phạm với T, nên C phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội do mình gây ra.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Sau khi phạm tội Trần C T đã đến cơ quan C an đầu thú, Nguyễn Viết C có bố là thương binh, mẹ được tặng bằng khen trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc bản thân bị cáo có thời gian phục vụ trong quân đội được tặng thưởng chiến sỹ tiên tiến nên T và C còn được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 BLHS.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho C ở khu vực Bệnh viện H, phường Đông H, thành phố T, C không biết nhân thân, địa chỉ cụ thể ở đâu. Do đó, Cơ quan CSĐT C an thành phố T không có căn cứ để xác minh, làm rõ và xử lý.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Số ma túy còn lại sau giám định trong các phong bì niêm phong vật chứng là vật nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy;

- 01 điện thoại di động VIVO màu đen thu giữ của Trần C T không phải là vật chứng vụ án nên trả lại cho bị cáo.

- 01 cân điện tử màu trắng xanh là vật sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Futurre màu xanh, biển kiểm soát 36B5 – xxxxx S điều khiểnđi bán ma túy, qua điều tra xác định là xe của anh Nguyễn Bá B sinh năm 1983 trú tại phố 2, phường Quảng Phú, thành phố T (anh trai Nguyễn Bá S) cho S mượn làm phương tiện đi lại, việc S dùng xe mô tô trên làm phương tiện phạm tội anh B không biết do đó Cơ quan CSĐT đã trả xe cho anh B nên HĐXX không xem xét.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo lần đầu phạm tội và chưa thu lời bất chính nên không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251 BLHS (đối với Trần C T, Nguyễn Bá S); điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 đối với Nguyễn Viết C; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS (đối với các bị cáo); Điều 58 BLHS (đối với Trần C T, Nguyễn Bá S); khoản 2 Điều 51 BLHS (đối với Trần C T, Nguyễn Viết C); khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 106; Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí tòa án.

Tuyên bố:

- Các bị cáo Trần C T, Nguyễn Bá S phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Bị cáo Nguyễn Viết C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt:

- Trần C T 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/3/2023;

- Nguyễn Bá S 30 (ba mươi) tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/3/2023.

- Nguyễn Viết C 20 (hai mươi) tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/3/2023.

Vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đựng trong 01 phong bì niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự C an tỉnh T, có hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự, kèm chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đ, Trịnh Thị Thu H.

- Tịch thu tiêu hủy 01 cân điện tử màu trắng xanh.

- Trả lại cho bị cáo Trần C T 01 điện thoại di động VIVO màu đen, Imel 1: 864932065225855. Điện thoại gắn kèm sim.

Hiện số vật chứng trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, theo biên bản giao nhận vật chứng số: 182/2023/THA ngày 02/6/2023 giữa C an thành phố T với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

Án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy số 248/2023/HS-ST

Số hiệu:248/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về