Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy số 214/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 214/2023/HS-ST NGÀY 12/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 180/2023/TLST-HS ngày 11/8/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 236/QĐXXST-HS ngày 31/8/2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phan Ngọc Á, tên gọi khác: Không - Sinh năm 1985, tại huyện K, tỉnh N.

Nơi ĐKNKTT và nơi ở hiện nay: Tổ B, phố N, thị trấn P, huyện K, tỉnh N; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 9/12; Con ông: Phan Đình C sinh năm 1955 và bà: Lưu Thị M, sinh năm: 1958; Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1989; Có 01 con sinh năm 2022; Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình.

Tiền sự: Không; Tiền án: Tại Bản án số 228/2011/HSST ngày 25/7/2011, bị Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Đ, xử phạt 08 năm 06 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 03/12/2017 chấp hành xong hình phạt tù;

Tại Bản án số 18/2020/HSST ngày 19/5/2020, bị TAND huyện Y, tỉnh N xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 28/4/2021, chấp hành xong hình phạt tù;

Nhân thân: Ngày 02/4/2003, bị UBND tỉnh N ra Quyết định số 557/QĐ-UB áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cơ sở giáo dục 02 năm, ngày 23/3/2006 chấp hành xong quyết định; tại bản án số 26/2006/HSST ngày 20/12/2006, bị TAND huyện Kim Sơn, tỉnh N xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 03/5/2008 chấp hành xong hình phạt tù (đã xóa án tích);

Bị tạm giữ từ ngày 24/6/2023; tạm giam từ ngày 26/6/2023 cho đến nay. Hiện nay đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh T (Có mặt).

2. Họ và tên: Văn Đình D, tên gọi khác: Không - Sinh năm 1982, tại thành phố S, tỉnh H.

Nơi ĐKNKTT và nơi ở hiện nay: Tổ dân phố S, phường T, thành phố S, tỉnh H; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 9/12; Con ông: Văn Đình D1 (đã chết) và bà: Lê Thị T1 (đã chết); Vợ, con: Chưa có; Gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ 6 trong gia đình.

Tiền sự: Không; Tiền án: Tại Bản án số 04/2014/HSST ngày 20/01/2014, bị Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn xử phạt 15 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 22/12/2014 chấp hành xong hình phạt tù (chưa xóa án tích);

Tại bản án số 24/2016/HSST ngày 21/4/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Sầm Sơn xử phạt 08 năm 06 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” ngày 04/3/2022 chấp hành xong hình phạt tù;

Nhân thân:

Ngày 09/10/2002, bị Tòa án nhân dân tỉnh H xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp tài sản”, ngày 08/5/2004 chấp hành xong hình phạt tù (đã xóa án tích);

Ngày 17/7/2005, bị Công an thị xã S (nay là thành phố S), xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; hình thức cảnh cáo, (đã chấp hành xong);

Tại Bản án số 29/2008/HSST ngày 29/7/2008, bị Tòa án nhân dân thị xã Sầm Sơn xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 18/5/2010 chấp hành xong hình phạt tù (đã xóa án tích);

Ngày 06/12/2010, bị Ủy ban nhân dân thị xã S ra quyết định đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc 24 tháng, ngày 07/12/2012 chấp hành xong;

Bị tạm giữ từ ngày 03/11/2022; tạm giam từ ngày 10/11/2023. Hiện nay đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh T (Có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo Phan Ngọc Á1: Luật sư Nguyễn Gia T2 Địa chỉ: Văn phòng L, số G đường L, phường B, thành phố T, tỉnh H (Có mặt) * Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Thị T - Sinh năm: 1989 (có mặt) Nơi cư trú: Tổ 2, phố N, thị trấn P, huyện K, tỉnh N.

* Người làm chứng:

Nguyễn Thị H - Sinh năm: 1966 (có mặt) Nơi cư trú: Xóm A, xã K, huyện K, tỉnh N

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và din biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ, ngày 03/11/2022, Văn Đình D bị tổ công tác Công an tỉnh T làm nhiệm vụ tại khu vực cầu T, đường Y, phố E, phường Q, thành phố T, tỉnh H kiểm tra thì phát hiện bắt quả tang thu giữ của D gồm 01 túi nilon màu trắng viền đỏ, kích thước khoảng (8x5)cm, bên trong chứa các cục vụn màu trắng trong túi quần bên phải D đang mặc (được niêm phong trong phong bì ký hiệu M); 01 xe mô tô gắn BKS 36H4-xxxx Dương đang sử dụng. D khai nhận đây là ma túy Heroine, D vừa mua của Phan Ngọc Á để sử dụng cho bản thân.

Căn cứ vào lời khai của Văn Đình D, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phan Ngọc Á tại phố N, thị trấn P, huyện K, tỉnh N thu giữ:

- 32 (ba hai) gói giấy nhỏ màu trắng, bên trong các gói đều chứa chất bột màu trắng dạng cục vụn; 14 (mười bốn) túi nilon, kích thước khoảng (2x2)cm bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng ở hộp sắt hình trụ tròn màu xanh để trên bàn đặt trong góc nhà dưới chân cầu thang phòng khách tầng 1 (được niêm phong trong phong bì ký hiệu N1);

- 01 túi nilon màu trắng, viền đỏ, kích thước khoảng (8x4)cm bên trong chứa 10 (mười) túi nilon nhỏ màu trắng, viền xanh kích thước khoảng (3x2,5)cm đều chứa chất tinh thể màu trắng; 01 túi nilon nhỏ màu trắng, viền màu đỏ kích thước khoảng (7x11)cm bên trong chứa 08 (tám) túi nilon nhỏ màu trắng, viền xanh kích thước khoảng (1,5x2,5)cm đều chứa chất tinh thể màu trắng; 01 túi nilon nhỏ màu trắng, viền màu đỏ, kích thước khoảng (7x11)cm bên trong chứa 64 (sáu tư) gói giấy nhỏ màu trắng đều chứa chất bột màu trắng dạng cục vụn; 01 túi nilon nhỏ màu trắng, kích thước khoảng (7x11)cm, bên trong chứa 30 (ba mươi) gói giấy nhỏ màu trắng đều đựng chất màu trắng dạng cục vụn; 01 túi nilon nhỏ màu trắng, viền đỏ, kích thước khoảng (5x8,5)cm bên trong chứa 25 (hai lăm) viên nén màu xanh, hình tam giác ở bên trong hộp đồng hồ quả lắc treo trên tường tại phòng khách (được niêm phong trong phong bì ký hiệu N2);

- 01 (một) cân tiểu ly màu đen, có chữ POCKET SCALE trên mặt bàn đặt trong góc nhà dưới chân cầu thang - Số tiền 45.000.000đ (bốn mươi lăm triệu đồng).

Ngày 03/11/2022, chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1989 ở tổ dân phố N, thị trấn P, huyện K, tỉnh N vợ Phan Ngọc Á giao nộp: 01 ôtô nhãn hiệu Honda Civic màu trắng BKS 35A-xxxxx; 01 điện thoại Samsung Galaxy và 01 điện thoại Iphone màu xanh để phục vụ điều tra.

Các bị cáo khai nhận: Khoảng hơn 19 giờ ngày 02/11/2022, Phan Ngọc Á một mình sang Khu công nghiệp H thuộc thành phố N, tỉnh Đ để tìm mua ma túy. Tại đây, Á gặp được 01 người đàn ông khoảng hơn 40 tuổi, đang đứng ở ven đường, qua nói chuyện, Á biết người đàn ông này bán ma túy nên đã hỏi mua của người này 7.000.000đ (bảy triệu đồng) ma túy Heroine, K, thuốc lắc và ma túy đá. Sau khi mua được ma túy, Á mang về nhà chia nhỏ ra các túi nhỏ cất giấu vào bên trong chiếc đồng hồ quả lắc treo trên tường ở phòng khách tầng 1, bên trong hộp sắt hình trụ tròn màu xanh đặt trên bàn trong góc dưới chân cầu thang mục đích để sử dụng và bán kiếm lời.

Khoảng 12 giờ ngày 03/11/2022, Văn Đình D một mình điều khiển xe mô tô BKS 36H4-xxxx mầu nâu nhãn hiệu DreamII CPI TAIWAN, từ thành phố T, tỉnh H ra thị trấn P, huyện K, tỉnh N để mua ma túy. Khi đi đến cầu Đ thuộc xã N, huyện N, tỉnh H, D dừng xe và gọi điện cho Phan Ngọc Á hỏi mua 4.000.000đ (bốn triệu đồng) ma túy Heroine. Á đồng ý bán ma túy cho D và hẹn D đi ra ngã 3 đường mới thuộc xóm F, xã L, huyện K, tỉnh N để giao dịch. Khoảng 13 giờ cùng ngày, D đi xe mô tô ra đến điểm hẹn, ngồi đợi khoảng 20 phút thì thấy Phan Ngọc Á điều khiển xe ôtô Honda Civic màu trắng BKS 35A-xxxxx, đi một mình đến, Á hạ cửa kính bên lái xe ôtô xuống, D đi lại gần cửa kính bên lái đưa cho Á 4.000.000đ (bốn triệu đồng) sau khi cầm tiền, Á đưa lại cho D 01 gói ma túy Heroine được bọc bên ngoài bằng nilon. Dương cầm gói ma túy rồi cất giấu vào người. Mục đích D mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Sau đó, D đi về thành phố T, khi đi đến cầu T thuộc đường Y, phố E, phường Q, thành phố T thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số ma túy mà D vừa mua của Á.

Ngày 24/6/2023 bị cáo Á đã đến cơ quan Công an đầu thú về hành vi phạm tội của mình và giao nộp 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone XS, màu đen.

Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 điện thoại di động Iphone màu xanh rêu và 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy của chị Nguyễn Thị T, quá trình điều tra xác định, 02 (hai) chiếc điện thoại trên là tài sản cá nhân của chị T đang sử dụng để liên lạc, không liên quan đến hành vi phạm tội. Do đó, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh T Quyết định xử lý bằng hình thức: Trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị T.

Tại bản Kết luận giám định số 3908/KL-KTHS, ngày 09/11/2022, của phòng K1 Công an tỉnh T kết luận:

- Cục vụn màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu M là ma túy, có tổng khối lượng 1,927g (một phẩy chín hai bảy gam), loại Heroine;

- Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu N1, là ma túy, có tổng khối lượng 4,876g (bốn phẩy tám bảy sáu gam), loại Heroine;

- Chất tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu N1 là ma túy, có tổng khối lượng 1,2912 (một phẩy hai chín một gam), loại Methamphetamine;

- Chất tinh thể màu trắng trong 10 túi nilon nhỏ màu trắng viền xanh của phong bì niêm phong ký hiệu N2 là ma túy, có tổng khối lượng 7,591g (bảy phẩy năm chín một gam) là ma túy, loại Ketamine;

- Chất tinh thể màu trắng trong 08 túi nilon nhỏ màu trắng viền xanh của phong bì niêm phong ký hiệu N2 là ma túy, có tổng khối lượng 0,978g (không phẩy chín bảy tám gam), loại Methamphetamine;

- Chất bột màu trắng dạng cục vụn trong 64 gói giấy nhỏ màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu N2 là ma túy, có tổng khối lượng 6,826g (sáu phẩy tám hai sáu gam) loại Heroine;

- Chất bột màu trắng dạng cục vụn trong 30 gói giấy nhỏ màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu N2 là ma túy, có tổng khối lượng 3,894g (ba phẩy tám chín bốn gam), loại Heroine;

- 25 viên nén màu xanh hình tam giác của phong bì niêm phong ký hiệu N2 là ma túy có tổng khối lượng 11,180g (một một phẩy một tám không gam), loại MDMA.

Đối với người đàn ông khoảng hơn 40 tuổi bán ma túy cho bị cáo Phan Ngọc Á vào tối ngày 02/11/2022, ở ngoài đường gần khu công nghiệp H, thành phố N, tỉnh Đ, bị cáo Phan Ngọc Á không biết rõ họ tên, nơi cư trú ở đâu, việc mua bán ma túy chỉ có bị cáo Phan Ngọc Á và người đàn ông này giao dịch trực tiếp với nhau, không có ai biết. Do vậy, Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xác minh làm rõ và xử lý trách nhiệm hình sự đối với người bán ma túy nêu trên và sẽ tách tài liệu liên quan để xử lý trong một vụ án khác khi có đủ căn cứ.

Về số thuê bao di động số 035323xxxx là số điện thoại của bị cáo Phan Ngọc Á sử dụng để giao dịch mua bán trái phép chất ma túy với bị cáo Văn Đình D vào ngày 03/11/2022 và bị cáo Phan Ngọc Á khai báo đã làm rơi mất chiếc điện thoại và chiếc sim nêu trên. Qua xác minh xác định chủ thuê bao là anh Trần Văn C1, sinh năm 1988, ở xã K, huyện K, tỉnh N. Anh Trần Văn C1 khai báo vào năm 2020 đã đăng ký và sử dụng số điện thoại 035323xxxx, đến giữa năm 2021 đã bị mất sim điện thoại nêu trên, bản thân anh C2 không quen biết ai tên là Phan Ngọc Á, Văn Đình D và không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo có tên nêu trên. Do đó, Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm trong vụ án này.

Cáo trạng số 73/CT-VKS-P1 ngày 09/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H đã truy tố Phan Ngọc Á, về tội "Mua bán trái phép cht ma túy", quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự và Văn Đình D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Hình phạt chính: Áp dụng điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Phan Ngọc Á phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” xử phạt từ 16 năm tù đến 17 năm tù. Được trừ đi thời hạn tạm giữ, tạm giam.

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Văn Đình D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” xử phạt từ 6 năm tù đến 7 năm tù. Được trừ đi thời hạn tạm giữ, tạm giam.

* Hình phạt b sung: Bị cáo Văn Đình D không có nghề nghiệp ổn định do đó không áp dụng hình phạt bổ sung.

Phạt bổ sung bị cáo Phan Ngọc Á từ 15.000.000đ đến 20.000.000đ.

* Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: Các phong bì được dán kín niêm phong, mặt trước shi “Vụ PC04 TC742, 26/12/2022” là các mẫu vật vụ Văn Đình D KLGD số 408/KL-KTHS và KLGĐ số 3908/KT-KTHS ngày 09/11/2022. Là các chất ma túy thu giữ còn lại sau giám định, cùng các bao bì, nilong, 01 (một) BKS: 36H4-xxxx và 01 (một) cân tiểu ly màu đen một mặt có chữ Pockt scale.

Tịch thu sung công quỹ: 01(một) Điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, số IMEI: 3557633102803941 và 01 (một) Xe máy Dream màu nâu của Văn Đình D.

Trả lại cho chị Nguyễn Thị T 01 (một) chiếc xe ôtô nhãn hiệu Honda Civic, BKS 35A - xxxxx và số tiền 45.000.000đ (bốn mươi lăm triệu đồng) cùng 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định xe ôtô BKS 35A-xxxxx số: 2018755; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô mang tên Nguyễn Thị T, BKS 35A-xxxxx số: 000165.

Trả lại cho Phan Ngọc Á 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS, màu đen số IMEI: 35617097063218 và 01 (một) Giấy phép lái xe số: 370067003xxx tên Phan Ngọc Á.

Truy thu từ Phan Ngọc Á số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) là tiền mà Á đã bán ma túy cho Văn Đình D mà có.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Phan Ngọc Á có quan điểm: Về tội danh và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thống nhất với viện kiểm sát. Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Á dưới mức VKS đề nghị. Về hình phạt bổ sung thì miễn cho bị cáo, bị cáo không có tài sản riêng, vợ chồng mới cưới nhau không có tài sản chung, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, thực tế không có khả năng để thực hiện hình phạt bổ sung.

Lời nói sau cùng, các bị cáo nhận tội, không tranh luận, xin được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật, cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an tỉnh T, Điều tra viên. VKSND tỉnh H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại Cơ quan Điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, các biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Các kết luận giám định, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 12 giờ, ngày 03/11/2022, tại phố E, phường Q, thành phố T, tỉnh H, Nguyễn Văn D2 có hành vi tàng trữ trái phép 1,927g (một phẩy chín hai bảy gam) ma túy loại Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân. Phạm tội lần này của D2 thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Phan Ngọc Á có hành vi bán trái phép 1,927g ma túy loại Heroine cho Văn Đình D, ngoài ra Á còn có hành vi tàng trữ 15,596 (mười lăm phẩy năm chín sáu gam) ma túy loại Heroine; 2,269g (hai phay hai sáu chín gam) ma túy loại Methamphetamine; 7,591g (bảy phẩy năm chín một gam) ma túy loại Ketamine và 11,180g (mười một phẩy một tám gam) ma túy loại MDMA mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Tổng khối lượng ma túy mà Phan Ngọc Á phải chịu trách nhiệm là 17,523g (mười bảy phay năm hai ba gam) Heroine; 2,269g Methamphetamine; 7,591g Ketamine và 11,180g MDMA (tương đương với 100,5g Ketamine hoặc 33,5g Heroine, Methamphetamine, MDMA).

Như vậy Hội đồng xét xử nhận thấy đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phan Ngọc Á đã cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự và Văn Đình D đã cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm o khoản 2, Điều 249 Bộ luật Hình sự, như Cáo trạng của VKSND tỉnh H đã truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[3] Tính chất vụ án: Hành vi của bị cáo Á là đặc biệt nghiêm trọng và rất nguy hiểm cho xã hội và của bị cáo D là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo đều nhận thức rõ tác hại của ma túy, và hình phạt đối với các hành vi phạm tội ma túy rất nghiêm khắc, vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý chất ma túy, gây tác hại nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm cũng như hậu quả của hành vi do mình thực hiện, nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm nên phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp. Các bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS. Do vậy, cần phải xét xử nghiêm khắc trước pháp luật mới có tác dụng trừng trị, răn đe, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội, nhất là đối với các loại tội phạm về ma túy đang gây bức xúc trong giai đoạn hiện nay.

[4] Về động cơ, mục đích, nguyên nhân và điều kiện phạm tội của các bị cáo: Bản thân các bị cáo là người nghiện ma túy, nên đã mua ma túy về sử dụng, bị cáo Á còn mục đích bán để kiếm lời lấy tiền mua ma túy sử dụng.

[5] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy:

Các bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo Á có 01 tình tiết tăng nặng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Bị cáo D tình tiết tái phạm nguy hiểm đã là dấu hiệu định khung hình phạt nên không coi là tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, bị cáo Á đã đầu thú được hưởng khoản 2 Điều 51 BLHS. HĐXX cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

Căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt tù các bị cáo nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người tốt.

Người đàn ông khoảng hơn 40 tuổi bán ma túy cho bị cáo Phan Ngọc Á vào tối ngày 02/11/2022, ở ngoài đường gần khu công nghiệp H, thành phố N, tỉnh Đ, bị cáo Phan Ngọc Á không biết rõ họ tên, nơi cư trú ở đâu, việc mua bán ma túy chỉ có bị cáo Phan Ngọc Á và người đàn ông này giao dịch trực tiếp với nhau, không có ai biết. Do vậy, Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xác minh làm rõ và xử lý trách nhiệm hình sự đối với người bán ma túy nêu trên và sẽ tách tài liệu liên quan để xử lý trong một vụ án khác khi có đủ căn cứ như trong hồ sơ là phù hợp.

[6] Về hình phạt b sung: Các bị cáo đều là người nghiện ma túy, không có công ăn việc làm ổn định, bị cáo Á mới lập gia đình không có tài sản rêng, tài sản chung, mục đích bán ma túy để kiếm tiền tái tạo để có tiền sử dụng ma túy, không có khả năng để thực hiện hình phạt bổ sung nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là phù hợp.

[7] Về xử lý vật chứng:

Vật chứng cơ quan điều tra đã xử lý HĐXX miễn xét.

Căn cứ Điều 47; Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Toàn bộ gói mở niêm phong của 03 phong bì và Cục vụn màu trắng của phong bì ký hiệu M là 1,709g; Chất bột màu trắng của phong bì ký hiệu N là 4,684g; Chất tinh thể màu trắng của phong bì ký hiệu N1 là 1,217g; Chất tinh thể màu trắng trong 10 túi nilon nhỏ màu trắng viền xanh của phong bì ký hiệu N2 là 7,082g; Chất tinh thể màu trắng trong 08 túi nilon nhỏ màu trắng viền xanh của phong bì ký hiệu N2 là 0,908g; Chất bột màu trắng dạng cục vụn trong 64 gói giấy nhỏ màu trắng của phong bì ký hiệu N2 là 6,400g; Chất bột màu trắng dạng cục vụn trong 30 gói giấy nhỏ màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu N2 là 3,698g; 23 viên nén màu xanh hình tam giác của phong bì ký hiệu N2 là 10,299g là mẫu vật còn lại sau giám định. Tất cả được đựng trong một phong bì do Công an tỉnh T phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lê Minh T3, B, Trương Đức T4 và các hình dấu của Phòng K1 Công an tỉnh T là vật chứng Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành tịch thu tiêu hủy cùng các bao bì, nilong.

01 (một) biển số xe giả 36H4-xxxx là những vật chứng thu giữ của bị cáo Văn Đình D và 01 (một) cân tiểu ly màu đen, có chữ POCKET SCALE thu giữ của Phan Ngọc Á dùng để bán ma túy là công cụ thực hiện hành vi phạm tội. Toàn bộ những vật chứng này không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu hủy.

Tịch thu, phát mại sung công, nộp ngân sách Nhà nước 01 (Một) chiếc xe mô tô gắn nhãn hiệu DreamIICPI TAIWAN, màu nâu, không có số khung, số máy nguyên thủy của xe là CPI 150FMG *016099* đã cũ; 01 điện thoại di động Nokia màn hình màu đen số IMEI: 3557633102803941 của Văn Đình D là công cụ, phương tiện phạm tội.

01(một) chiếc xe ôtô nhãn hiệu Honda Civic, BKS 35A - xxxxx mà bị cáo Phan Ngọc Á sử dụng để đi bán ma túy cho bị cáo Văn Đình D vào ngày 03/11/2022 và số tiền 45.000.000đ (bốn mươi lăm triệu đồng) mà Cơ quan điều tra Công an tỉnh T đã tạm giữ khi khám xét khẩn cấp nơi ở của Phan Ngọc Á: Quá trình điều tra xác định, chiếc xe ôtô có giấy tờ đăng ký mang tên Nguyễn Thị T. Chiếc ôtô và số tiền trên là do bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1966, ở xóm A, xã K, huyện K, tỉnh N là mẹ đẻ của chị T tặng riêng cho chị T, chị T không biết và không liên quan đến hành vi mua bán trái phép ma túy của bị cáo Phan Ngọc Á, chị T và bị cáo mới cưới nhau nên chưa tạo lập được tài sản chung, số tiền thu được không liên quan đến vụ án nên trả lại xe ôtô và số tiền trên cho chị Nguyễn Thị T là phù hợp.

Trả lại cho chị Nguyễn Thị T 01 (một) chiếc xe ôtô nhãn hiệu Honda Civic, BKS 35A - xxxxx và số tiền 45.000.000đ (bốn mươi lăm triệu đồng) cùng 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định xe ôtô BKS 35A-xxxxx số: 2018755; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô mang tên Nguyễn Thị T, BKS 35A-xxxxx số: 000165.

Trả lại cho Phan Ngọc Á 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS, màu đen số IMEI: 35617097063218 và 01 (một) Giấy phép lái xe số: 370067003xxx tên Phan Ngọc Á.

Truy thu từ bị cáo Phan Ngọc Á số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) là tiền mà bị cáo Á đã bán ma túy cho bị cáo Văn Đình D mà có.

[8] Án phí sơ thm:

Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Đề nghị hình phạt của Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là phù hợp và có căn cứ pháp luật.

Đề nghị của người bào chữa cho bị cáo Á là miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Á là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Điểm h khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phan Ngọc Á.

Điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Văn Đình D.

Tuyên bố: Các bị cáo Phan Ngọc Á phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Văn Đình D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” .

Xử phạt:

1. Bị cáo Phan Ngọc Á 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày tạm giữ là ngày 24 tháng 6 năm 2023.

2. Bị cáo Văn Đình D 7 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày tạm giữ là ngày 03 tháng 11 năm 2022.

Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Truy thu từ Phan Ngọc Á số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng).

Xử lý vật chứng.

Căn cứ Điều 47; Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy gồm: Toàn bộ gói mở niêm phong của 03 phong bì và Cục vụn màu trắng của phong bì ký hiệu M là 1,709g; Chất bột màu trắng của phong bì ký hiệu N là 4,684g; Chất tinh thể màu trắng của phong bì ký hiệu N1 là 1,217g; Chất tinh thể màu trắng trong 10 túi nilon nhỏ màu trắng viền xanh của phong bì ký hiệu N2 là 7,082g; Chất tinh thể màu trắng trong 08 túi nilon nhỏ màu trắng viền xanh của phong bì ký hiệu N2 là 0,908g; Chất bột màu trắng dạng cục vụn trong 64 gói giấy nhỏ màu trắng của phong bì ký hiệu N2 là 6,400g; Chất bột màu trắng dạng cục vụn trong 30 gói giấy nhỏ màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu N2 là 3,698g; 23 viên nén màu xanh hình tam giác của phong bì ký hiệu N2 là 10,299g là mẫu vật còn lại sau giám định. Tất cả được đựng trong một phong bì do Cồng an tỉnh T phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Tê Minh T3, B, Trương Đức T4 và các hình dấu của Phòng K1 Công an tỉnh T cùng các bao bì, nilong, 01 (một) biển số xe giả 36H4-xxxx và 01 (một) cân tiểu ly màu đen một mặt có chữ POCKET SCALE.

Tịch thu, phát mại sung công, nộp ngân sách nhà nước 01 (Một) chiếc xe mô tô gắn nhãn hiệu DreamlICPI TAIWAN, màu nâu, không có số khung, số máy nguyên thủy của xe là CPI 150FMG *016099* đã cũ; 01 điện thoại di động Nokia màn hình màu đen số IMEI: 3557633102803941.

Trả lại cho chị Nguyễn Thị T 01 (một) chiếc xe ôtô nhãn hiệu Honda Civic, BKS 35A - xxxxx và số tiền 45.000.000đ (bốn mươi lăm triệu đồng), cùng 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định xe ôtô BKS 35A-xxxxx số: 2018755; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô mang tên Nguyễn Thị T, BKS 35A-xxxxx số: 000165.

Trả lại cho Phan Ngọc Á 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS, màu đen số IMEI: 35617097063218 và 01 (một) Giấy phép lái xe số: 370067003xxx tên Phan Ngọc Á.

Các vật chứng trên đang tạm giữ tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh H theo biên bản giao nhận vật chứng số 187/ 2023/TV-CTHADS ngày 11/8/2023 giữa Phòng PC04 Công an tỉnh T và Cục Thi hành án dân sự tỉnh H. Giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 10/8/2023 người nộp là Lê Văn C3 đơn vị nhận tiền Cục Thi hành án dân sự tỉnh H.

Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Phan Ngọc Á và Văn Đình D mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình) có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 12 tháng 9 năm 2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

62
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy số 214/2023/HS-ST

Số hiệu:214/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về