Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy số 13/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 13/2024/HS-ST NGÀY 28/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 3 năm 2024 Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Sxét xử sơ thẩm công khai, trực tuyến tại điểm cầu trung tâm: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh S. Điểm cầu thành phần: Nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh S đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2024/TLST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Sđối với các bị cáo:

1. Lý Văn G, tên gọi khác: Không; sinh ngày 06/10/1975 tại huyện T, tỉnh L; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn K, xã C, huyện T, tỉnh L ; nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Mạc Văn T (đã chết); con bà: Lý Thị S, sinh năm 1953; Vợ: Lăng Thị T, sinh năm 1978; Con: Có 01 con, sinh năm 2000; tiền án: 01 tiền án cụ thể ngày 22/5/2018 bị Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/02/2023; tiền sự: Không; Nhân thân: Đã bị kết án, chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật. Bị cáo hiện đang bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh Stừ ngày 28/11/2023 cho đến nay, có mặt.

2. Lương Minh H, tên gọi khác: Không, sinh ngày 05/12/1997 tại huyện T, tỉnh L. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn B, xã C, huyện T, tỉnh L; nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lương Văn T, sinh năm 1970; con bà: Trần Thị H, sinh năm 1972; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Đã bị kết án, chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật. Bị cáo hiện đang bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh Stừ ngày 01/12/2023 cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 30 phút ngày 28/11/2023, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra (CSĐT) tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an huyện T, tỉnh Slàm nhiệm vụ tại thôn B, xã C, huỵện T, tỉnh L phát hiện Lương Minh H đang điều khiển xe đạp điện, có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác tiến hành kiểm tra phát hiện trong tay trái của H có 01 gói chất bột màu trắng, đỏ hình chữ nhật, có kích thước 1 x 1,7cm, bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy. Lương Minh H khai nhận chất bột màu trắng là chất ma túy Heroin, H vừa mua với Lý Văn G với giá 100.000 đồng mục đích đem về để sử dụng. Tổ công tác đưa Lương Minh H cùng tang vật về trụ sở Công an xã Chi Lăng để lập biên bản sự việc. Tạm giữ tang vật, đồ vật, tài sản của Lương Minh H gồm: 01 gói chất bột màu trắng, đỏ hình chữ nhật, có kích thước 01 x 1,7cm, bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng màu vàng nhãn hiệu sam sung lắp 01 sim số 0769.259.520; Số tiền 110.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam; 01 xe máy điện màu đỏ đen. Đồng thời tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lương Minh H, kết quả không thu giữ đồ vật gì liên quan.

Căn cứ lời khai của Lương Minh H, cùng ngày 28/11/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện T tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở của Lý Văn G phát hiện và thu giữ những đồ vật, tài sản gồm: 01 bật lửa gas; 01 cân tiểu ly màu đen; 01 mảnh giấy bạc diện 2x5cm; 01 mảnh giấy bạc diện 3x8cm;

01 mảnh giấy trắng kẻ ô ly diện 3x3cm; 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu OPPO màu đỏ; 01 ví giả da bên trong có 01 căn cước công dân mang tên Lý Văn G ; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô; số tiền 1.200.000 đồng;

01 túi nilon trong suốt, bên trong đựng chất bột màu trắng dạng cục; 01 gói chất bột màu trắng dạng cục được gói bằng vỏ bao thuốc lá hoàn kiếm và bọc một lớp túi nilon màu hồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen mang biển kiểm soát 12T1-xxxxx.

Tại kết luận giám định số: 50/KL-KTHS, ngày 30/11/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Skết luận:

+ 01 gói chất bột màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Lương Minh H là chất ma túy Heroin, có khối lượng 0,124 gam (đã trừ bì).

+ 03 gói chất bột màu trắng thu giữ khi khám xét chỗ ở của Lý Văn G là chất ma túy Heroin, có tổng khối lượng là 2,938 gam (đã trừ bì).

Tại kết luận giám định số: 57/KL-KTHS, ngày 04/12/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Skết luận: Số tiền 110.000 đồng thu giữ của Lương Minh H và số tiền 1.200.000 đồng thu giữ của Lý Văn G gửi giám định đều là tiền thật.

Tại cơ quan điều tra, các bị cáo Lý Văn G và Lương Minh H khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 28/8/2023, Lý Văn G một mình xuống thị trấn Đ , huyện C, tỉnh L mua với một người đàn ông lái xe ôm (không biết tên tuổi, địa chỉ) 03 gói ma túy Heroin dạng cục với giá 3.000.000 đồng, mục đích đem về nhà chia thành nhiều gói nhỏ để sử dụng và bán kiếm lời. Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, Lý Văn G đã bán cho Lương Minh H 01 gói ma túy Heroin với giá 100.000 đồng tại khu vực đồi L thuộc thôn B, xã C, huyện T, tỉnh L, số còn lại chưa kịp bán thì bị lực lượng chức năng phát hiện bắt giữ.

Cáo trạng số: 15/CT-VKSTĐ ngày 05 tháng 3 năm 2024 truy tố các bị cáo: Lý Văn G về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Lương Minh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi như Cáo trạng đã nêu. Lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Sthực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố về tội danh như Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt chính: Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 đề nghị xử phạt bị cáo Lý Văn G từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249;

Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự xử phạt Lương Minh H từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” . Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với tất cả các bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 0,103 gram Heroine đựng trong gói giấy trong bì thư niêm phong theo quy định; 2,816 gram Heroine và vỏ bao cũ đựng trong gói giấy trong bì thư niêm phong theo quy định; 01 bật lửa gas; 01 cân tiểu ly màu đen; 01 mảnh giấy bạc diện 2x5cm; 01 mảnh giấy bạc diện 3x8cm; 01 mảnh giấy trắng kẻ ô ly diện 3x3cm.

Tịch thu nộp hóa giá nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu OPPO màu đỏ lắp 01 sim số 0847.128.xxx thu giữ của Lý Văn G ; 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng màu vàng nhãn hiệu SAM SUNG lắp 01 sim số 0769.259.520 của Lương Minh H; Tịch thu của Lý Văn G 100.000 đồng (trong tổng số tiền 1.200.000 đồng thu giữ của Lý Văn Gia).

Trả cho các bị cáo: Trả cho Lương Minh H 110.000 đồng (một trăm mười nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án; Trả cho Lý Văn G 1.100.000 đồng, nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án; 01 ví giả da bên trong có 01 căn cước công dân mang tên Lý Văn G ; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen mang biển kiểm soát 12T1-xxxxx, các vấn đề khác đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận các bị cáo không có ý kiến gì tranh luận. Lời nói sau cùng của các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo yên tâm cải tạo sớm được trở về đoàn tụ cùng gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 28/11/2023, tại khu đồi L thuộc thôn B, xã C, huyện T, tỉnh L, Lý Văn G đã có hành vi bán 01 gói ma túy Heroin cho Lương Minh H có khối lượng 0,124 gam, mục đích H mua về để sử dụng cho bản thân. Số ma túy còn lại của Lý Văn G có tổng khổi lượng 2,938 gam chưa kịp bán thì bị lực lượng chức năng phát hiện bắt giữ. Như vậy bị cáo Lý Văn G đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Lương Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một cách độc lập.

[4] Về tính chất, hậu quả mức độ của hành vi phạm tội: Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức được hành vi của mình nhưng các bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội; ảnh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc là nguy cơ tiềm ẩn phát sinh các loại tội phạm mới, làm giảm ngân sách nhà nước để giải quyết các hậu quả do ma túy mang lại. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt ngoài việc xem xét tính chất, mức độ hành vi của việc phạm tội còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt mới tương xứng với hành vi mà các bị cáo gây ra.

[5] Về nhân thân: Các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, đã bị xét xử, do vậy là người có nhân thân xấu.

[6] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Lương Minh H không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự; Bị cáo Lý Văn G có 01 tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm h khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[8] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[9] Đối với người đàn ông bán chất ma túy Heroin cho bị cáo Lý Văn G tại khu vực thị trấn Đ, huyện C, tỉnh L. Xét thấy đây là lời khai một phía của bị cáo G, mặt khác không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để xác minh làm rõ.

[10] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,103 gram Heroine đựng trong gói giấy trong bì thư niêm phong theo quy định; 2,816 gram Heroine và vỏ bao cũ đựng trong gói giấy trong bì thư niêm phong theo quy định; 01 bật lửa gas; 01 cân tiểu ly màu đen; 01 mảnh giấy bạc diện 2x5cm; 01 mảnh giấy bạc diện 3x8cm; 01 mảnh giấy trắng kẻ ô ly diện 3x3cm là vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu OPPO màu đỏ lắp 01 sim số 0847.128.xxx; 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng màu vàng nhãn hiệu sam sung lắp 01 sim số 0769.259.520 và số tiền 100.000 đồng (trong tổng số tiền 1.200.000 đồng thu giữ của Lý Văn G) là tang vật phạm tội nên cần tịch thu hóa giá nộp ngân sách nhà nước; Đối với số tiền 110.000 đồng (một trăm mười nghìn đồng) thu giữ của Lương Minh H và số tiền 1.100.000 đồng thu giữ của Lý Văn G không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho các bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án; Đối với 01 ví giả da bên trong có 01 căn cước công dân mang tên Lý Văn G; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen mang biển kiểm soát 12T1-xxxxx, xác định đây là vật dụng gia đình nên trả lại cho bị cáo.

[11] Những gì khác với nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử đều không được chấp nhận.

[12] Từ những phân tích nêu trên Hội đồng xét xử nhận thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định cho các bị cáo đi cải tạo tập trung để các bị cáo nhận thức được hành vi của mình, đồng thời giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[13] Về án phí: Các bị cáo, phải chịu án phí theo khoản 2 Điều 135, khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[14] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lý Văn G;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự đối với Lương Minh H;

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, điểm a , b khoản 3 Điều 106; khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án đối với tất cả các bị cáo.

1.Về tội danh:

1.1. Tuyên bố bị cáo Lý Văn G phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” 1.2. Tuyên bố bị cáo Lương Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Lý Văn G 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/11/2023.

2.2 Xử phạt bị cáo Lương Minh H 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/12/2023.

3. Về vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy: Tịch thu tiêu hủy: 0,103 gram Heroine đựng trong gói giấy trong bì thư niêm phòng theo quy định; 2,816 gram Heroine và vỏ bao cũ đựng trong gói giấy trong bì thư niêm phòng theo quy định; 01 bật lửa gas màu xanh nhãn hiệu Thống Nhất cũ đã qua sử dụng; 01 cân tiểu ly màu đen mặt nắp có chữ “POCKET SCALE” cũ đã qua sử dụng; 01 mảnh giấy bạc diện 2x5cm có vết cháy xén màu đen; 01 mảnh giấy bạc diện 3x8cm có cạnh xé nham nhở; 01 mảnh giấy trắng kẻ ô ly diện 3x3cm.

3.2. Tịch thu nộp hóa giá nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu OPPO màu đỏ, số IMEI: 866056042588090, bên trong lắp 01 sim số 0847.128.xxx cũ đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng màu vàng nhạt nhãn hiệu SAM SUNG, số IMEI:

353298087063791, bên trong lắp 01 sim số 0769.259.520 cũ đã qua sử dụng; Tịch thu của Lý Văn G 100.000 đồng (trong tổng số tiền 1.200.000 đồng thu giữ của Lý Văn Gia) 3.3 Trả cho các bị cáo: Trả cho Lương Minh H 110.000 đồng (một trăm mười nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án; Trả cho Lý Văn G 1.100.000 đồng, nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án; 01 ví giả da bên trong có 01 căn cước công dân mang tên Lý Văn G; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen mang biển kiểm soát 12T1-xxxxx.

(Vật chứng nêu trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Stheo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06 tháng 3 năm 2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S).

4. Về án phí: Buộc các bị cáo mỗi người phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy số 13/2024/HS-ST

Số hiệu:13/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về