Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 89/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 89/2023/HS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 29 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 85/2023/TLST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2023/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn L, tên gọi khác: Không; sinh ngày: 01/3/1990, nơi sinh: huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm Mai Tân, xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lái xe; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 09/12; Họ tên cha: Lê Văn D (đã chết), họ tên mẹ: Trương Thị M, sinh năm: 1963; Vợ là Trần Thị L, sinh năm 1991; Con có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 26/8/2023 đến ngày 03/9/2023, hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Trương Thị H, sinh năm 1971. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Xóm Tân Thái, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ, ngày 24/8/2023, bị cáo Lê Văn L (người lái xe cho nhà xe Lục H - xe ô tô mang biển kiểm soát 37B-0X3x, do chị Trương Thị H, sinh năm 1971, trú tại xóm Tân Thái, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An làm chủ xe chạy tuyến Nghệ An – Bình Dương) đang ở bến xe khách Lam Hồng, thuộc tỉnh Bình Dương thì gặp 01 (một) người đàn ông không quen biết đang ở cổng bến xe, qua nói chuyện người đàn ông này hỏi bị cáo L “Có mua hàng chơi tết không”, bị cáo L hỏi lại “Hàng chi đó”? người đàn ông trả lời “Pháo Hoa” – nhưng bị cáo hiểu rằng người đàn ông này hỏi mua bán Pháo nổ nên bị cáo hỏi “Loại mấy đó” – bị cáo L hỏi là 01 (một) hộp bao nhiêu quả, người đàn ông trả lời “dàn 36 quả”, sau đó bị cáo L nói “Nếu rẻ thì lấy, còn đắt thì thôi”. Nghe bị cáo L nói vậy người đan ông hỏi “lấy được bao nhiêu”, bị cáo L nói tiếp “Lấy vừa thôi”. Lúc đó bị cáo L thấy trên xe của người đàn ông có 02 thùng cotton nên hỏi “Mấy cấy đó”, người đàn ông trả lời “14 hộp”. Sau đó bị cáo L và người đàn ông trao đổi thỏa thuận giá cả và người đó đồng ý bản cho bị cáo L 14 hộp pháo với giá 3.500.000 (Ba triệu năm trăm nghìn). Sau khi mua pháo xong bị cáo L một mình mang 02 thùng pháo để vào gầm xe khách biển kiểm soát 37B-0X.33 để cát dấu rồi lên xe đi ngủ. Đến khoảng 04 giờ 00 phút, ngày 25/8/2023, xe ô tô khách mang biển kiểm soát 37B-0X bắt đầu xuất phát từ bến xe Lam Hồng đi về huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Đến khoảng 05 giờ, 00 phút ngày 26/8/2023, xe khách mang biển kiểm soát 37B-0X.33 do bị cáo L điều khiển đi đến địa phận xóm Đại Đồng, xã T Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An thì bị lực lượng Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Nghệ An tiến hành kiểm tra, phát hiện chiếc xe ô tô do bị cáo L điều khiển có chở 02 thùng cotton bên trong có chứa 14 hộp pháo. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quá tang, thu giữ vật chứng và đưa người liên quan về trụ sở làm việc. Tại trụ sở Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An bị cáo Lê Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, mục đích mua pháo nổ về để sử dụng vào dịp lễ, tết.

Vật chứng thu giữ gồm: 02 (hai) thùng cotton gồm: 01 (một) thùng cotton nhãn hiệu SPJ, màu vàng, kích thước 30cm x 25cm x 35cm, bên trong có chứa 06 gói nilon màu đen, bên trong mỗi gói nilon màu đen chứa 01 khối hình hộp kích thước 12cm x 15cm x 14cm, có nhiều màu sắc, trên bề mặt có chữ nươc ngoài; 01 (một) thùng catton nhãn hiệu LION, màu vàng, kích thước 30cm x 25cm x 35cm, bên trong có chứa 08 gói nilon màu đen, bên trong mỗi gói nilon màu đen chứa 01 khối hình hộp kích thước 12cm x 15cm x 14cm, có nhiều màu sắc, trên bề mặt có chữ nươc ngoài (Nghi là pháo nổ); 01 (một) xe ô tô loại THACO; số loại TB 120; màu trắng, mang Biển kiểm soát 37B-0X.33.

Vào lúc 09 giờ 00 phút, ngày 26/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An tiến hành thành lập Hội đồng mở niêm phong, xác định khối lượng và lấy mẫu giám định và niêm phong lại. Tổng 14 (mười bốn) hộp pháo thu giữ của bị cáo Lê Văn L, có tổng khối lượng 18,88kg (Mười tám phẩy tám mươi tám Kilôgam). Cơ quan điều tra lấy 04 (bốn) hộp pháo, ký hiệu M1 đến M4 có tổng khối lượng 5,379kg (năm phẩy ba bảy chín kilôgam) gửi đi giám định. Tại bản kết luận giám định số 214/KL-PC09 (Đ2-CN) ngày 31/8/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, kết luận: Mẫu vật ký hiệu M1 đến M4 gửi giám định là pháo, thuộc loại pháo nổ. Quả trình giám định đã sử dụng hết mẫu vật gửi đến giám định.

Cáo trạng số 92/VKS-HS ngày 15/9/2023, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Lê Văn L về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: Về hình phạt:

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Lê Văn L từ 09 (chín) tháng tù đến 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Lê Văn L.

Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì nên không xét.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS, tuyên xử: Tịch thu tiêu hủy 13,501 kg pháo nổ được niêm phong trong 02 thùng catton gồm: 01 (một) niêm phong bằng thùng catton nhãn hiệu SPJ, màu vàng, kích thước 30cm x 25cm x 35cm, tiến hành niêm phong bằng 04 giấy niêm phong ngày 26/8/2023, bên trên giấy niêm phong có chữ ký, họ tên Nguyễn Đ T, Trần Ngọc D, Nguyễn Anh Đ, Lê Văn L và in hình dấu của cơ quan CSĐT công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An theo đúng quy định; 01 (một) niêm phong bang thùng catton nhãn hiệu LION, màu vàng, kích thước 30cm x 25cm x 35cm, tiến hành niêm phong bằng 04 giấy niêm phong ngày 26/8/2023, bên trên giấy niêm phong có chữ ký, họ tên Nguyễn Đ T, Trần Ngọc D, Nguyễn Anh Đ, Lê Văn L và in hình dấu của cơ quan CSĐT công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An theo đúng quy định thu giữ của bị cáo Lê Văn L Về án phí: Bị cáo Lê Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Trương Thị H vắng mặt nhưng quá trình điều tra chị H khai: Chị H là chủ xe ô tô loại THACO; số loại TB 120; màu trắng, mang Biển kiểm soát 37B-0X.33. Bị cáo Lê Văn L là người lái xe thuê cho chị H. Từ ngày 24 đến ngày 26 tháng 8 năm 2023, bị cáo L là người điều khiển xe ô tô mang Biển kiểm soát 37B-0X.33 chạy theo tuyến Tân Kỳ - Bình Dương và ngược lại. Việc bị cáo L mua pháo, cất dấu pháo trên xe ô tô chị H không biết. Quá trình bắt giữ bị cáo L cơ quan điều tra đã thu giữ xe ô tô mang biển kiểm soát 37B-0X.33 nhưng hiện nay chị H đã nhận lại xe nên không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng truy tố là đúng nên không tranh luận gì với quan điểm, đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Đô Lương, của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại gì nên hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[1.2]. Về việc vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng quá trình điều tra đã có lời khai đầy đủ. Xét thấy việc vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên HĐXX xét xử vụ án vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Xét hành vi của bị cáo:

Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố là đúng. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và các chứng cứ khác đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên toà có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 05 giờ, 00 phút, ngày 26/8/2023, tại Quốc lộ 7A, thuộc xóm Đại Đồng, xã T Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An bị cáo Lê Văn L đã có hành vi tang trữ trái phép 18,88kg pháo nổ. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Như vậy, hành vi của bị cáo Lê Văn L đã phạm vào tội tội “Tàng trữ hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất hành vi của bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo Lê Văn L thực hiện thuộc loại ít nghiêm trọng nhưng nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước cụ thể là trong lĩnh vực hàng hóa mà Nhà nước cấm sản xuất, buôn bán, vận chuyển và tàng trữ mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần phải xử phạt nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bị cáo có nơi cư trú ổn định nên không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Hành vi của bị cáo không gây thiệt hại gì cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.

[4]. Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan Công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An đã thu giữ 18,88kg pháo nổ được đụng trong 02 (hai) thùng catton gồm: 01 (một) thùng catton nhãn hiệu SPJ, màu vàng, kích thước 30cm x 25cm x 35cm, bên trong có chứa 06 gói nilon màu đen, bên trong mỗi gói nilon màu đen chứa 01 khối hình hộp kích thước 12cm x 15cm x 14cm, có nhiều màu sắc, trên bề mặt có chữ nươc ngoài;

01 (một) thùng catton nhãn hiệu LION, màu vàng, kích thước 30cm x 25cm x 35cm, bên trong có chứa 08 gói nilon màu đen, bên trong mỗi gói nilon màu đen chứa 01 khối hình hộp kích thước 12cm x 15cm x 14cm, có nhiều màu sắc, trên bề mặt có chữ nươc ngoài. Quá trình giải quyết vụ án đã lấy 04 (bốn) khối hình hộp có tổng khối lượng 5,379kg pháo nổ để trưng cầu giám định, quá trình giám định đã sử dụng hết nay còn lại 13,501 kg pháo nổ được niêm phong trong 02 thùng catton gồm: 01 (một) niêm phong bằng thùng catton nhãn hiệu SPJ, màu vàng, kích thước 30cm x 25cm x 35cm, tiến hành niêm phong bằng 04 giấy niêm phong ngày 26/8/2023, bên trên giấy niêm phong có chữ ký, họ tên Nguyễn Đ T, Trần Ngọc D, Nguyễn Anh Đ, Lê Văn L và in hình dấu của cơ quan CSĐT công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An theo đúng quy định; 01 (một) niêm phong bang thùng catton nhãn hiệu LION, màu vàng, kích thước 30cm x 25cm x 35cm, tiến hành niêm phong bằng 04 giấy niêm phong ngày 26/8/2023, bên trên giấy niêm phong có chữ ký, họ tên Nguyễn Đ T, Trần Ngọc D, Nguyễn Anh Đ, Lê Văn L và in hình dấu của cơ quan CSĐT công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An theo đúng quy định là hàng cấm nên cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 (một) xe ô tô, loại xe THACO, biển kiểm soát 37B-0X.33 đã qua sử dụng thu của bị cáo L, qua trình giải quyết vụ án xác minh được xe thuộc sở hữu của chị Trương Thị H và không liên quan đến hành vi phạm tội hiện nay xe đẫ được trả lại cho chị Trương Thị H là đúng pháp luật.

[5] Đồi với người đàn ông bị cáo L khai đã bán pháo cho bị cáo. Quá trình điều tra cơ quan điều tra Công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An tiến hành điều tra, xác minh nhưng không có kết quả, khi nào điều tra, xác minh được sẽ xử lý sau; Đối với chị Trương Thị H là chủ xe ô tô mang biển kiểm soát 37B-0X.33, việc bị cáo L dung xe chở pháo nổ từ bến xe Lam Hồng về Nghệ An nhưng chị H không biết; Đối với lái xe khác và các phụ xe đi cùng không biết hành vi tang trữ hàng cấm của bị cáo L. Vì vậy, việc không xử lý trách nhiệm những người này là đúng quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo Lê Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An về việc giải quyết toàn diện vụ án là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c, khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65; Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên bố: bị cáo Lê Văn L phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn L 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 29/9/2023).

Giao bị cáo Lê Văn L cho Ủy ban nhân dân xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An giám sát, giao dục bị cáo trong thời gian chấp hành án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định khoản 3 Điều 92; Điều 68 Luật thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Lê Văn L.

- Về vật chứng: Tuyên xử: Tịch thu tiêu hủy 13,501kg (Mười ba phẩy năm không một kilogam) pháo nổ thu giữ của bị cao Lê Văn L được niêm phong trong 02 thùng catton gồm: 01 (một) niêm phong bằng thùng catton nhãn hiệu SPJ, màu vàng, kích thước 30cm x 25cm x 35cm, tiến hành niêm phong bằng 04 giấy niêm phong ngày 26/8/2023, bên trên giấy niêm phong có chữ ký, họ tên Nguyễn Đ T, Trần Ngọc D, Nguyễn Anh Đ, Lê Văn L và in hình dấu của cơ quan CSĐT công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An theo đúng quy định; 01 (một) niêm phong bang thùng catton nhãn hiệu LION, màu vàng, kích thước 30cm x 25cm x 35cm, tiến hành niêm phong bằng 04 giấy niêm phong ngày 26/8/2023, bên trên giấy niêm phong có chữ ký, họ tên Nguyễn Đ T, Trần Ngọc D, Nguyễn Anh Đ, Lê Văn L và in hình dấu của cơ quan CSĐT công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An theo đúng quy định (Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng thuộc Công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An theo phiếu nhập kho vật chứng số 56/PNK ngày 03/9/2023).

- Về án phí: Buộc bị cáo Lê Văn L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 89/2023/HS-ST

Số hiệu:89/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về