Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 58/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 58/2023/HS-ST NGÀY 25/10/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 25 tháng 10 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh H; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 57/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử SỐ: 54/2023/QĐXXST-HS ngay 11 tháng 10 năm 2023;

Đối với bị cáo: Nguyễn Đức T, sinh ngày 14 tháng 5 năm 1992 tại: xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện tại: Thôn B, xã L, thành phố P, tỉnh H;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị L; Vợ Nguyễn Thị Thúy H; có 02 con;

Tiền án, tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 27/8/2023 đến ngày 31/8/2023 thì áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà.

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Đình L1 - sinh năm 1985 Địa chỉ: Thôn L, thị trấn K, huyện T, tỉnh H.

2. Trần Ngọc X - sinh năm 1967 Địa chỉ Tổ dân phố B, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thái Bình.

3. Chị Nguyễn Thị Thúy H - sinh năm 1992 Địa chỉ: Thôn B, xã L, thành phố P, tỉnh H.

4. Anh Lê Đình S - sinh năm 1985 Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện Đ, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 gờ 05 phút ngày 27/8/2023, Tổ tuần tra giao thông của Đội cảnh sát giao thông số BI thuộc Phòng c Công an tỉnh T khi làm nhiệm vụ tại km 05+400 đường Q nối đường H, thuộc địa phận xã X, huyện T, tỉnh H phát hiện chiếc xe ô tô tải thùng, biển kiểm soát T60-xxxxx do anh Nguyễn Đình L1 (sinh năm 1985, trú tại thị trấn K, huyện T, tỉnh H) điều khiển có dấu hiệu vi phạm giao thông nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra, phát hiện có 03 thùng cát tông (loại thùng nước khoáng AQUA) bên trong có chứa 21 hộp nghi pháo hoa (có ghi nhãn mác là chữ nước ngoài), mỗi thùng chứa 07 hộp. Nguyễn Đức T khai báo là chủ của số hàng trên và đi nhờ xe ô tô T60-xxxxx do anh Nguyễn Đình L1 điều khiển. Tổ cảnh sát giao thông Công an tỉnh T đã phối hợp với Cơ quan CSĐT Công an huyện T để tiến hành xác minh làm rõ vụ việc, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ 03 thùng cát tông nhăn hiệu nước khoáng AQUA FINA màu xanh trắng. Bên trong mỗi thùng chứa 07 hộp nghi pháo hoa; 01 ô tô nhãn hiệu DOTHANH, biển số đăng ký T60-xxxxx và các giấy tờ liên quan. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Đức T không phát hiện thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Nguồn gốc số pháo Nguyễn Đức T khai: Ngày 25/8/2023, T điều khiển xe ô tô 16 chỗ (loại xe mới xuất xưởng của nhà máy Ô), từ khu công nghiệp G, tỉnh Ninh Bình đến giao xe cho đại lý H1 ở thành phố Đà Nẵng. Do là người thích pháo hoa nên T muốn mua pháo về chơi dịp lễ tết, khi đi đến ngã tư thị trấn C, huyện C, tỉnh Quảng Trị, T dừng xe hỏi và nhờ người lái xe ôm, T không biết tên tuổi địa chỉ, khoảng 50 tuổi mua 21 hộp pháo với giá 5.000.000 đồng. Anh xe ôm đồng ý đi mua cho T 21 hộp pháo hoa có nguồn gốc do Thái Lan sản xuất, trong đó có 20 hộp pháo hoa loại 49 ống pháo (giàn 49) và 01 hộp pháo hoa loại 36 ống (dàn 36) đựng trong 03 thùng cát tông với giá 5.000.000đ, T đưa tiền mặt cho anh xe ôm. Sau đó, T bỏ hàng lên thùng xe đi về Đà nẵng để giao xe cho đại lý. Khi vào đến Đà Nẵng, T điện cho anh Nguyễn Đình L1 là bạn cùng lái xe thuê cho đại lý ô tô, nhờ anh L1 cho đi nhờ xe từ Đà Nẵng về nhà. Khoảng 07 giờ sáng ngày 26/8/2023, anh L1 đến đại lý ô tô H1 ở Đà Nẵng đón T, T có để 3 thùng cát tông lên xe và không nói với anh L1 về số hàng trên là hàng gì mà chỉ nói là “cho để hộ mấy thùng hàng cho đứa em”. Do tin tưởng T nên anh L1 không kiểm tra và cũng không nói gì. Đến khoảng 00 giờ 05 phút ngày 27/8/2023, khi xe ô tô của anh L1 đi đến khu vực km 05+400 đường quốc lộ 47 nối với đường H, thuộc địa phận xã X, huyện T thì bị Tổ tuần tra cảnh sát giao thông và Cơ quan điều tra phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Ngày 28/8/2023,Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 256/QĐ-CSĐT yêu cầu giám định số vật chứng thu giữ. Tại Bản kết luận giám định số 3065/KL-KTHS ngày 29/8/2023 của Phòng K Công an tỉnh T kết luận:

- 07 (bảy) Khối hình hộp chữ nhật, mỗi hộp kích thước (17,5xl7,5x 10)cm bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc có in chữ nước ngoài, bên trong có 49 lỗ, mỗi lỗ có đường kính l,9cm, được kết nối với nhau bằng sợi dây ngòi dưới đáy hộp, bên trong lỗ có hỗn hợp chất màu đen, màu xám và các hạt hình cầu của thùng carton niêm phong, ký hiệu P1 gửi giám định đều là pháo hoa nổ (thuộc pháo nồ). Tổng khối lượng 07 khối hộp pháo trên là 12,34kg (Mười hai phẩy ba mươi tư ki lô gam).

- 07 (bảy) khối hình hộp chữ nhật, trong đó:

+ 02 (hai) khối hình hộp chữ nhật, mỗi hộp kích thước (17,5 x 17,5 x 10)cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc có in chữ nước ngoài, bên trong có 49 lỗ, mỗi lỗ có đường kính 1,9cm, được kết nối với nhau bằng sợi dây ngòi dưới đáy hộp, bên trong lỗ có hỗn hợp chất màu đen, màu xám và các hạt hình cầu của thùng carton niêm phong, ký hiệu P2 gửi giám định đều là pháo hoa nổ (thuộc pháo nổ).

+ 05 (năm) khối hình hộp chữ nhật, mỗi hộp kích thước (17 x 17 x 10)cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc có in chữ nước ngoài, bên trong có 49 hình trụ tròn được liên kết với nhau, mỗi vật dài 10cm, đường kính 2,4cm, bên trong các vật có hỗn hợp chất màu đen, màu xám và các hạt hình cầu của thùng carton niêm phong, ký hiệu P2 gửi giám định đều là pháo hoa nổ (thuộc pháo nổ).

Tổng khối lượng 07 (bảy) khối hộp pháo trên là 12,24kg (Mười hai phẩy hai mươi tư ki lô gam).

- 07 (bảy) khối hình hộp chữ nhật, trong đó + 01 (một) khối hình hộp chữ nhật, mỗi hộp kích thước (14,5 x 14,5 x 12,5)cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc có in chữ nước ngoài, bên trong có 36 hình trụ tròn được hên kết với nhau, mỗi vật dài 12,5cm, đường kính 2,4cm, bên trong các vật có hỗn hợp chất màu đen, màu xám và các hạt hình cầu của thùng carton niêm phong, ký hiệu P3 gửi giám định đều là pháo hoa nổ (thuộc pháo nổ).

+ 06 (sáu) khối hình hộp chữ nhật, mỗi hộp kích thước (17 x 17 x 10)cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc có in chữ nước ngoài, bên trong có 49 hình trụ tròn được liên kết với nhau, mỗi vật dài 10cm, đường kính 2,4cm, bên trong các vật có hỗn hợp chất màu đen, màu xám và các hạt hình cầu của thùng carton niêm phong, ký hiệu P3 gửi đến giám định đều là loại pháo hoa nổ (thuộc pháo nổ).

Tổng khối lượng 07 (bảy) khối hộp pháo trên là 11,75kg (Mười một phẩy bảy mươi lăm kilogram).

*Về đồ vật, tài liệu và vật chứng của vụ án:

- 01 ô tô nhãn hiệu DOTHANH, biển số đăng ký T60-xxxxx; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe tạm thời tên chủ xe Công ty CP Ô1; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc của Công ty CP Ô1; 01 phiếu kiểm tra xuất xưởng dùng cho xe cơ giới; 01 phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ số 03; 02 biên bản giao xe giữa Công ty CP Ô1 với Công ty CP Đ không phải là vật chứng của vụ án đã được Cơ quan điều tra trả lại cho người quản lý hợp pháp ngày 11/9/2023.

- 21 (hai mươi mốt) khối hộp hình chữ nhật, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc có in chữ nước ngoài, tổng khối lượng 35kg (Ba mươi lăm ki lô gam) còn lại sau giám định đang được niêm phong quản lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 64/CT-VKSTX ngày 02/10/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức T về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Đức T thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; Bị cáo không có ý kiến gì về kết luận giám định.

Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Tàng trữ hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1, 4 Điều 191; Điều 38; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65; khoản 2 Điều 35 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T từ 18 tháng đến 24 tháng tù cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 36 tháng đến 48 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm;

Phạt bổ sung từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ đối với bị cáo Thông.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị:

- Tịch thu, tiêu hủy đối với: 21 (hai mươi mốt) khối hộp hình chữ nhật, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc có in chữ nước ngoài, tổng khối lượng 35kg (Ba mươi lăm ki lô gam) còn lại sau giám định đang được niêm phong quản lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo không tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo nhận tội và xin được giảm nhẹ mức hình phạt, được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản làm việc, Biên bản khám xét, Kết luận giám định, vật chứng thu giữ được và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận:

Ngày 27/8/2023, tại thôn Đ, xã X, huyện T, Nguyễn Đức T có hành vi tàng trữ 36,33kg (Ba mươi sáu phẩy ba mươi ba kilogram), loại pháo hoa nổ với mục đích để sử dụng. Bị cáo Nguyễn Đức T có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; nhận thức được hành vi tàng trữ phép pháo hoa nổ, là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Như vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo Nguyễn Đức T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, xâm phạm đến chế độ quản lý đối với các loại hàng hóa cấm, trong đó có pháo nổ, pháo hoa nổ. Pháo và thuốc pháo là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều vụ cháy nổ làm thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của nhân dân, cho nên từ năm 1994 Chính phủ đã ban hành các Chỉ thị, Nghị định nghiêm cấm các hành vi sản xuất, mua, bán, nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển, tàng trữ và sử dụng trái phép các loại pháo nổ, pháo hoa nổ và thuốc pháo. Tuy nhiên trong những năm qua tình trạng đốt pháo nổ, pháo hoa nổ, đặc biệt là trong dịp tết Nguyên đán vẫn diễn ra ở một vài nơi trên cả nước, gây nhiều ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự; làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước; gây bức xúc trong nhân dân. Do vậy, việc đưa vụ án ra xét xử và xử lý nghiêm minh là rất cần thiết, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo; cũng như đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa tội phạm; tuyên truyền ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân. Đây đồng thời cũng là bài học đối với những ai đang có ý định thực hiện các hành vi liên quan đến pháo nổ trái phép đã bị Nhà nước nghiêm cấm.

[4] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Đức T có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có ông nội và B nội là người có công với cách mạng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt: Từ những phân tích, đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử, xét thấy bị cáo T có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, có lý lịch và nơi cư trú ổn định nên không cần thiết phải xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T bằng hình phạt tù giam, mà áp dụng Điều 65 BTHS cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ điều kiện để bị cáo cải tạo thành người tốt.

[6] Về hình phạt bổ sung: Để pháp luật được nghiêm minh và mang tính răn đe phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội, nên phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 4 Điều 191 BTHS.

[7] Về vật chứng vụ án:

- Đối với: 21 (hai mươi mốt) khối hộp hình chữ nhật, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc có in chữ nước ngoài, tổng khối lượng 35kg (Ba mươi lăm ki lô gam) còn lại sau giám định đang được niêm phong quản lý theo quy định của pháp luật, tất cả được đựng trong 03 ba thùng carton, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký Trần Nam G, Trần Ngọc D, Ninh Công T2 và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung : “Phòng K Công an tỉnh T”, Đây là hàng cấm tàng trữ, cấm lưu hành, nên cần phải tịch thu, tiêu hủy. Hiện tại số vật chứng trên đang được quản lý tại Công an huyện T; Chi cục Thi hành án dân sự huyện T có trách nhiệm phối hợp cùng Công an huyện T tiêu hủy số vật chứng trên.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, 4 Điều 191; khoản 1, 2, 3, 5 Điều 65; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 2 Điều 35 Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 293; khoản 1 Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”, - Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T 20 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 40 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm;

Giao bị cáo Nguyễn Đức T cho UBND xã L, thành phố P, tỉnh H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

- Phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Đức T 10.000.000đ (mười triệu đồng).

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy đối với: 21 (hai mươi mốt) khối hộp hình chữ nhật, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc có in chữ nước ngoài, tổng khối lượng 35kg (Ba mươi lăm ki lô gam) còn lại sau giám định đang đựng trong 03 ba thùng carton, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký Trần Nam G, Trần Ngọc D, Ninh Công T2 và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: “Phòng K Công an tỉnh T”, hiện đang được quản lý tại Công an huyện T, hiện trạng theo như Biên bản niêm phong và giao nhận đối tượng sau giám định ngày 30/8/2023. Chi cục Thi hành án dân sự huyện T có trách nhiệm phối hợp cùng Công an huyện T tiêu hủy số vật chứng trên.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đức T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

52
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 58/2023/HS-ST

Số hiệu:58/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thọ Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về