Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 30/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

 BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 09 tháng 3 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2021/HSST ngày 03 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Đặng Tiến C, sinh năm 1999 tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn x, xã An Đổ, huyện x, tỉnh Hà Nam; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Đặng Văn Hx và bà Bạch Thị Thu H; vợ con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ từ ngày 02-01-2021 sau đó chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Nam Định; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 01-01-2021, tổ công tác Đội Cảnh sát giao thông trật tự - Công an thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực ngã ba giao nhau giữa Đại lộ x và lối rẽ vào nghĩa trang x, phường x, thành phố x phát hiện Đặng Tiến C điều khiển xe máy Honda WaveS BKS: 90H9-xxcó biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, C đã tự nguyện giao nộp cho tổ công tác 01 bao xác rắn màu trắng đang để tại vị trí gác ba-ga của xe máy. Tổ công tác đã mời người chứng kiến, tiến hành mở bao xác rắn ra kiểm tra thì thấy trong bao có chứa: 01 vật dài khoảng 91 cm gồm nhiều quả hình trụ kết lại thành vỉ, mỗi quả dài khoảng 07 cm, đường kính 03 cm, bên ngòai bọc vỏ màu đỏ - niêm phong ký hiệu M1; 03 vật cùng loại hình khối hộp, mỗi vật có kích thước khoảng (15x15x15)cm, bên ngoài đều bọc giấy màu đỏ - vàng, trong đó có 01 vật bị khuyết một góc có kích thước khoảng (5x2,5x15)cm – niêm phong ký hiệu M2 và 01 vật hình khối hộp có kích thước khoảng (15x15x15)cm, bên ngoài bọc giấy có nhiều màu - niêm phong ký hiệu M3. C khai nhận toàn bộ vật chứng trên đều là pháo nổ mà C mua về để sử dụng. Sau đó, tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng theo quy định rồi đưa C cùng những người chứng kiến về trụ sở Công an phường Lộc Vượng lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của C: 01 xe máy Honda WaveS BKS: xx, 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe máy và 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe mô tô – xe máy đều mang tên Đặng Văn H; 01 căn cước công dân và 01 giấy phép lái xe mô tô cùng mang tên Đặng Tiến C; 01 điện thoại di động Oppo màu tím đen cùng 01 sim điện thoại đều đã cũ (C khai là điện thoại dùng để liên lạc mua pháo nổ).

Tại Cơ quan điều tra, Đặng Tiến C đã khai nhận hành vi tàng trữ pháo nổ để sử dụng của mình như trên. Đồng thời khai nhận nguồn gốc số pháo nổ bị thu giữ như sau: Do có nhu cầu sử dụng pháo nổ nên khoảng cuối năm 2020, Đặng Tiến C đã dùng tài khoản facebook “C Chém” của mình để lên mạng xã hội facebook tìm kiếm thì thấy tài khoản facebook “xx” đăng bài rao bán pháo nổ. Ngày 31-12- 2020, C đã nhắn tin qua ứng dụng Messenger đặt mua của tài khoản facebook “xx” 04 giàn pháo nổ loại 36 quả với giá 600.000 đồng/01 giàn và người này đã cung cấp cho C số điện thoại “088957xxx” để liên lạc. Đồng thời, cả hai hẹn ngày hôm sau sẽ gặp nhau tại khu vực cây xăng x, phường x, thành phố x để giao dịch. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 01-01-2020, C tiếp tục nhắn tin qua Messenger đặt mua thêm của tài khoản facebook “xx” 02 dây pháo nổ loại 91cm với giá 200.000 đồng/01 dây. Sau đó, cả hai thỏa thuận lại khoảng 17 giờ cùng ngày sẽ gặp nhau tại cổng siêu thị BigC, phường x, thành phố x. Tuy nhiên, đến giờ hẹn C đi tới khu vực trên nhưng không gặp được người bán pháo nên đã quay về nhà. Khoảng 21 giờ cùng ngày, tài khoản facebook “xx” nhắn tin bảo C ra ngay khu vực siêu thị BigC, thành phố x để lấy pháo thì C đồng ý và mượn bố mình là ông Đặng Văn H, sinh năm: 1971; trú tại: Thôn x, xã x, huyện x, tỉnh Hà Nam chiếc xe máy BKS: 90H9-xx để đi đến điểm hẹn. Khi đi đến khu vực cây xăng x, C dừng xe, gọi điện cho người bán pháo thì người này bảo C đi đến khu vực ngã ba giao nhau giữa Đại lộ x và lối rẽ vào nghĩa trang x, phường x, thành phố x đợi. C đi đến địa điểm trên rồi đứng đợi khoảng 20 phút thì thấy 01 nam thanh niên (không rõ lai lịch, địa chỉ) điều khiển xe máy Wave màu đen (không rõ BKS) đi đến chỗ mình. Sau đó, nam thanh niên trên đã dẫn C đến cổng nghĩa trang x, tổ x, phường x, thành phố x để lấy pháo. Tại đây, nam thanh niên chỉ vào 01 thùng bìa carton đang để sẵn tại đó và nói pháo nổ được để bên trong. C mở chiếc thùng này ra kiểm tra thì thấy bên trong có 01 bao xác rắn màu trắng trong đựng 04 giàn pháo nổ loại giàn 36 quả và 01 dây pháo nổ dài khoảng 90cm. C thấy thiếu 01 dây pháo nổ nên đã hỏi nam thanh niên thì được biết hiện chỉ còn 01 dây pháo này. C đã đồng ý mua số pháo nổ trên với giá 2.600.000 đồng. Sau khi nhận đủ số tiền C đưa, nam thanh niên trên điều khiển xe máy bỏ đi. C xách bao xác rắn màu trắng bên trong có chứa pháo nổ để lên gác baga xe máy BKS: 90H9-xx rồi điều khiển xe đi đến khu vực ngã ba đại lộ x giao với lối rẽ vào nghĩa trang x, thành phố x thì bị tổ công tác tổ công tác Đội cảnh sát giao thông, trật tự - Công an thành phố Nam Định kiểm tra, bắt giữ như trên.

Tại bản Kết luận giám định số 12/KTHS ngày 04-01-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định đã kết luận các vật chứng của vụ án được thu giữ, niêm phong ký hiệu M1, M2, M3 như sau:

- M1 là pháo nổ - tổng trọng lượng (khối lượng) là 1,783kg;

- M2 là pháo, có đặc tính của pháo nổ (chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ) – tổng trọng lượng (khối lượng) là 4,031kg;

- M3 là pháo, có đặc tính của pháo nổ (chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ) – tổng trọng lượng (khối lượng) là 1,434kg;

Tổng trọng lượng (khối lượng) các mẫu vật gửi đến giám định ký hiệu M1, M2, M3 là 7,248kg (bảy phẩy hai trăm bốn mươi tám ki lô gam).

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh thông tin chủ thuê bao số điện thoại “0889575558” mà người bán pháo nổ dùng để liên lạc với C xác định: Số thuê bao này được kích hoạt từ ngày 30-07-2018, thông tin khách hàng được cập nhật trên hệ thống dưới dạng đại lý (chưa đăng ký chính chủ).

Chiếc xe máy Honda WaveS BKS: 90H9-xx cùng 01 giấy chứng nhận đăng ký xe số 010151 và 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe mô tô - xe máy đều mang tên “Đặng Văn H”, quá trình điều tra xác định thuộc quyền sở hữu của ông Đặng Văn H đồng thời ông H không biết việc C sử dụng chiếc xe trên để đi mua pháo nổ nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe máy trên cùng các giấy tờ liên quan cho ông H.

Đối với đối tượng đã bán pháo nổ cho C, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan điều tra tách ra để tiếp tục điều tra, xác minh, xử lý sau.

Bản cáo trạng số 48/CT-VKSTPNĐ ngày 02-02-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Đặng Tiến C tội: “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đặng Tiến C về tội danh, điều luật như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Đặng Tiến C từ 07 tháng tù đến 09 tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số pháo đã thu giữ, 01 chiếc bao màu trắng; tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu tím đen và 01 sim điện thoại; trả lại cho bị cáo C 01 căn cước công dân và 01 giấy phép lái xe mô tô đều mang tên Đặng Tiến C nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[2] Về tội danh:

Khoảng 22 giờ ngày 01-01-2021, Đặng Tiến C đã có hành vi tàng trữ 7,248 kg pháo nổ mục đích để sử dụng tại khu vực ngã ba giao nhau giữa Đại lộ x và lối rẽ vào nghĩa trang x, phường x, thành phố x thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa; lời khai của người làm chứng; biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang; sơ đồ hiện trường; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; biên bản kiểm tra điện thoại, bản kết luận giám định, thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Đặng Tiến C phạm tội “Tàng trữ hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

4.1. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

4.2. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

4.3. Về hình phạt chính:

Trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Về hình phạt chính cần ấn định cho bị cáo mức hình phạt tù có thời hạn trong khung đã truy tố và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung trên địa bàn thành phố.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Xét bị cáo không có việc làm ổn định, khối lượng pháo bị cáo tàng trữ không nhiều nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Vật chứng thu giữ gồm 04 giàn pháo nổ và 01 dây pháo nổ là vật Nhà nước cấm tàng trữ, 01 chiếc bao không có giá trị sử dụng nên tất cả tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động và 01 sim điện thoại bị thu giữ bị cáo dùng làm phương tiện để liên lạc thực hiện hành vi phạm tội nên tất cả tịch thu sung quỹ Nhà nước. 01 căn cước công dân và 01 giấy phép lái xe mô tô đều mang tên Đặng Tiến C là giấy tờ của bị cáo nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phần án phí Hình sự sơ thẩm.

[7] Án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đặng Tiến C phạm tội: “Tàng trữ hàng cấm”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Đặng Tiến C 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 02-01-2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy số pháo có trong 03 (ba) thùng bìa cattong đã được niêm phong ký hiệu lần lượt là M1, M2, M3 và 01 bao màu trắng đã cũ;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu tím đen được niêm phong mã số NS3A108069; 01 sim điện thoại được niêm phong mã số NS4A112872;

- Trả lại bị cáo Đặng Tiến C 01 căn cước công dân số 035099000568 mang tên Đặng Tiến C và 01 giấy phép lái xe mô tô số 010183070367 mang tên Đặng Tiến C nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phần án phí Hình sự sơ thẩm.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng).

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo Đặng Tiến C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo Đặng Tiến C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật thi hành án dân sự: Bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 30/2021/HS-ST

Số hiệu:30/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về