Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 26/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 26/2021/HS-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 30 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2021 và Thông báo số: 02/TB-TA ngày 22/6/2021 về việc thay đổi ngày xét xử, đối với:

- Bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1991; tên gọi khác: Không; nơi sinh: Tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: ấp H, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 03/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1958 và bà Lê Thị Mỹ H, sinh năm 1960; có chồng Nguyễn Pha N, sinh năm 1987 và có 01 người con, sinh năm 2016; tiền án: Không; tiền sự: Không; tạm giữ: Không; tạm giam: Không; Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 03, ngày 30/12/2020 của Công an huyện T.

Bị cáo hiện đang tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Pha N, sinh năm 1987, vắng mặt.

2. Đặng Đình L, sinh năm 1954, vắng mặt.

3. Nguyễn Văn H, sinh năm 1970, vắng mặt.

4. Trần Thị T, sinh năm 1938, vắng mặt.

5. Nguyễn Thị T, sinh năm 1975, vắng mặt.

Cùng địa chỉ: ấp H, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 50 phút ngày 17/12/2020, Phòng cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Đồng Tháp phối hợp với Đội cảnh sát điều tra về hình sự - kinh tế - Ma túy Công an huyện T bắt quả tang bị can Nguyễn Thị Ngọc L tàng trữ thuốc lá điếu nhập lậu trong nhà Trần Thị T (mẹ chồng L) tại ấp H, xã A, tiến hành lập biên bản, thu giữ vật chứng và niêm phong theo quy định.

Vật chứng thu giữ gồm: Thuốc lá nhãn hiệu HERO 4.000bao; Thuốc lá ngoại nhãn hiệu JET 4.000 bao; Thuốc lá ngoại nhãn hiệu NELSON 750 bao. Vật chứng cơ quan điều tra chưa xử lý.

Ngoài ra, còn thu giữ tại biên bản phạm tội quả tang lúc 03 giờ 10 phút ngày 17/12/2020, thu giữ 350 bao thuốc lá nhãn hiệu JET, 350 bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON; thu giữ tại biên bản phạm tội quả tang lúc 03 giờ 20 phút ngày 17/12/2020, thu giữ 750 bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON tại trước sân nhà bà Trần Thị T.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L khai nhận: vào khoảng 23 giờ ngày 16/12/2020, có nhiều người đàn ông lạ mặt (không rõ họ tên địa chỉ) điều khiển xe máy hướng từ thành phố H chở nhiều bao loại bao dùng đựng lúa bên trong chứa thuốc lá, không có hóa đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ, của người tên T nhà ở Campuchia đến gửi, rạng sáng hôm sau đến lấy, khi nhận thuốc thì đưa 200.000đồng, bị cáo thống nhất. Sau đó, những người này đem những bao thuốc lá để ở phía bên trong buồng nhà bị cáo cất giấu. Lúc đem thuốc vào nhà có mẹ chồng là Trần Thị T, con Nguyễn Quyết T (sinh năm 2016) đang ngủ, việc bị cáo tàng trữ thuốc lá không ai biết. Đến hơn 01 giờ ngày 17/12/2020 thì lực lượng Công an bắt quả tang thu giữ 4.000bao thuốc lá nhãn hiệu JET, 4.000bao thuốc lá nhãn hiệu HERO, 750 bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON, bị cáo chưa nhận tiền thì bị bắt quả tang.

Ngoài lần phạm tội trên, bị cáo còn khai nhận là cách 02 ngày trước, những người đàn ông trên có gửi thuốc lá không biết số lượng, việc bị cáo tàng trữ thuốc lá không ai biết, bị cáo nhận 50.000đồng. Lần này, chỉ có bị cáo khai nhận tàng trữ thuốc lá điếu nhập lậu, không biết số lượng, Cơ quan điều tra không chứng minh được, nên không có cơ sở buộc bị cáo nộp lại số tiền 50.000đồng, không áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần.

Đối với số thuốc lá thu giữ tại biên bản phạm tội quả tang lúc 03 giờ 10 phút ngày 17/12/2020, thu giữ 350 bao thuốc lá nhãn hiệu JET, 350 bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON; thu giữ tại biên bản phạm tội quả tang lúc 03 giờ 20 phút ngày 17/12/2020, thu giữ 750 bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON tại trước sân nhà bà Trần Thị T. Bị cáo khai nhận không biết của ai, bà T khai cũng không biết của ai, ngoài lời khai bị cáo không còn chứng cứ khác, số lượng thuốc không đủ xử lý hình sự, Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp đã xử lý theo Luật xử lý vi phạm hành chính.

Tại Cáo trạng số: 22/CT-VKS-TN ngày 17 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L phạm tội “Tàng trữ hàng cấm” theo điểm b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên phân tích các tình tiết cấu thành tội phạm và khẳng định cáo trạng đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L, phạm tội “Tàng trữ hàng cấm” mức án từ 06 năm đến 07 năm tù. Tình tiết tăng nặng: Không.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng. Về vật chứng: Giữ nguyên theo Cáo trạng.

- Bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L khai: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội “Tàng trữ hàng cấm” như nội dung cáo trạng đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên. Bị cáo không tham gia tranh luận, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 17/12/2020 của Công an huyện T; Tờ tự khai ngày 17/12/2020 của bị cáo; Lời khai người làm chứng, cùng toàn bộ chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 00 giờ 50 phút ngày 17/12/2020, bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L bị bắt quả tang tàng trữ thuốc lá điếu nhập lậu trong buồng tại nhà tại ấp H, xã A, thu giữ 4.000bao thuốc lá nhãn hiệu JET, 4.000bao thuốc lá nhãn hiệu HERO, 750bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON, tổng cộng 8.750bao, không có hoá đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ.

Ngoài lần phạm tội trên, bị cáo còn khai nhận là cách 02 ngày trước, những người đàn ông lạ mặt trên có gửi thuốc lá không biết số lượng, việc bị cáo tàng trữ thuốc lá không ai biết, bị cáo khai đã nhận 50.000đồng. Lần này, chỉ có bị cáo khai nhận tàng trữ thuốc lá điếu nhập lậu, không biết số lượng, Cơ quan điều tra không chứng minh được nên không có cơ sở buộc bị cáo nộp lại số tiền 50.000đồng và không áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần là phù hợp.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất ổn định an ninh trật tự ở địa phương, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Bị cáo tàng trữ trái phép thuốc lá điếu nhập lậu tổng số 8.750bao thuốc đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ hàng cấm” theo điểm b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mức hình phạt theo điều luật quy định phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

[3] Hình phạt bổ sung: Xét thấy, bản thân bị cáo làm thuê thu nhập không ổn định nên không áp dụng.

[4] Tình hình buôn lậu thuốc lá có chiều hướng gia tăng về số lượng, số vụ. Việc tàng trữ và vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu trong thời gian gần đây có dấu hiệu gia tăng cả trên đường bộ lẫn đường thủy, đặc biệt là tại các tỉnh giáp biên giới, về thủ đoạn hoạt động cũng ngày càng tinh vi, hiện nay trên địa bàn huyện Tam Nông đặc biệt là các xã A, L ...các đối tượng thường sử dụng các phương tiện đường bộ hoặc đường thủy để vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu đến địa điểm cất giấu tàng trữ và sau đó đi tiêu thụ gây ảnh hưởng đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước.

Bản thân bị cáo có đủ năng lực, hành vi nhận thức được việc tàng trữ thuốc lá điếu nhập lậu là vi phạm pháp luật, nhưng vì ham lợi nên bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để đi vào con đường phạm tội nên áp dụng hình phạt với một mức án tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.

Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đang nuôi con nhỏ và mẹ chồng bị bệnh Trần Thị T thuộc người cao tuổi; có bác chồng Nguyễn Văn N là liệt sĩ nên được xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình Sự. Tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với thuốc lá điếu nhãn hiệu HERO 4.000bao, thuốc lá điếu nhãn hiệu JET 4.000bao và thuốc lá điếu nhãn hiệu NELSON 750bao (đã niêm phong). Xét thấy, vật chứng trên là chứng cứ và cấm lưu hành do bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp theo quy định điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6] Đối với thuốc lá điếu thu giữ tại biên bản phạm tội quả tang lúc 03 giờ 10 phút ngày 17/12/2020, thu giữ 350 bao thuốc lá nhãn hiệu JET, 350 bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON; thu giữ tại biên bản phạm tội quả tang lúc 03 giờ 20 phút ngày 17/12/2020, thu giữ 750 bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON tại trước sân nhà bà Trần Thị T. Trong quá trình điều tra, không chứng minh được tội phạm và Ủy ban nhân dân huyện T đã tịch thu theo Quyết định số 06 và 07, ngày 23/02/2021 nên không xem xét.

[7] Đối với Trần Thị T, quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã chứng minh không đồng phạm với bị cáo nên không xem xét.

[8] Đối với Nguyễn Pha N, quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã chứng minh không biết việc bị cáo tàng trữ trái phép số thuốc lá trên nên không xem xét.

[9] Đối với những người đàn ông lạ mặt, người tên T nhà ở Campuchia, bị cáo L khai không biết rõ họ, tên địa chỉ cụ thể. Cơ quan điều tra không làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xem xét xử lý sau.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L phạm tội: “Tàng trữ hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Thuốc lá nhãn hiệu HERO 4.000bao, huốc lá nhãn hiệu JET 4.000bao và thuốc lá điếu nhãn hiệu NELSON 750bao (đã niêm phong).

(Tất cả vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đồng Tháp đang quản lý).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

549
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 26/2021/HS-ST

Số hiệu:26/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về