TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 24/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM
Ngày 26/3/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh B, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 29/2024/HSST, ngày 07/02/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/QĐXXST- HS, ngày 11/3/2024, đối với bị cáo:
Đào Trọng H, sinh ngày 21/12/2002, tại tỉnh Thái Bình;
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã Q, huyện C, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Trọng H và bà Hà Thị H; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự:: Không; bị bắt giam, giữ: Không – Có mặt tại phiên toà.
* Những người làm chứng:
1. Anh Hoàng Văn C, sinh năm 2003 - Có mặt tại phiên toà. Trú tại: Thôn L, xã Q, huyện Chợ mới, tỉnh B.
2. Anh Đào Văn C, sinh năm 1993;
Trú tại: Xóm C, xã T, huyện Phú Lương, tỉnh T. Vắng mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 20 giờ 10 phút ngày 15/12/2023 tại km 08+100 đường BOT T - C thuộc thôn L, xã Q, huyện C, tỉnh B, tổ công tác Công an huyện C phát hiện Đào Trọng H đang cất giấu 02 thùng giấy cát tông chứa vật nghi là pháo nổ gồm 81 thỏi hình trụ tròn có kích thước khác nhau bên ngoài được quấn giấy màu đỏ, một đầu có ngòi cháy màu bạc và 03 thỏi hình trụ tròn có kích thước khác nhau bên ngoài được quấn bằng giấy nhiều màu có chữ in một đầu có ngòi cháy màu bạc tại lề đường bên phải hướng C - T. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tạm giữ, niêm phong toàn bộ 84 thỏi hình trụ tròn nêu trên trong 02 thùng cát tông ký hiệu lần lượt là H1, H2.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C tiến hành mở, đóng niêm phong, cân xác định khối lượng tang vật thu giữ của Đào Trọng H có khối lượng là 26,5kg (hai sáu phẩy năm kilôgam). Sau khi cân, niêm phong lại vào thùng cát tông ký hiệu H1, H2 gửi giám định.
Tại kết luận giám định số: 9339/KL-KTHS ngày 18/12/2023 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Mẫu vật trong 02 thùng cát tông ký hiệu H1, H2 gửi giám định đều là pháo nổ, có tổng khối lượng là 26,5kg (hai sáu phẩy năm kilôgam). Mẫu vật đã được sử dụng hết trong quá trình giám định.
Quá trình điều tra, Đào Trọng H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình về thời gian, địa điểm, nguồn gốc, số lượng pháo nổ mua được và tàng trữ. H khai nhận 84 thỏi pháo nổ mà Công an thu giữ tối ngày 15/12/2023 là của H mua về nhằm mục đích sử dụng đốt vào dịp tết, không được cá nhân, tổ chức nào cho phép. Số pháo nổ trên có được là vào chiều ngày 15/12/2023, H sử dụng điện thoại cá nhân thông qua mạng xã hội Telegram liên hệ với một người không quen biết hỏi mua 5.000.000đ (năm triệu đồng) tiền pháo nổ thì được người này đồng ý, qua thỏa thuận pháo nổ sẽ được gửi xe khách, tổng là 84 thỏi mỗi thỏi có kích thước dài khoảng 20-30cm. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày có số điện thoại xe khách gọi nên H đứng chờ ở bên phải đường BOT hướng C - T thuộc địa phận thôn L, xã Q, huyện C, tỉnh B để nhận pháo nổ được chứa trong 02 thùng cát tông và trả số tiền 5.000.000đ cho một người đàn ông không quen biết trên xe khách. Sau khi cất giấu 02 thùng pháo nổ vào một ngôi nhà hoang gần đó, H bê 01 thùng ra lề đường chờ xe về nhà nhưng chưa đón được thì bị Cơ quan Công an bắt quả tang. H còn khai, số tiền 5.000.000đ mua pháo nổ là của H do lao động mà có, không có ai góp tiền hay nhờ mua pháo nổ; không có ai biết, chứng kiến việc H mua và tàng trữ trái phép pháo nổ. Quá trình Công an phát hiện, bắt quả tang H đã làm rơi điện thoại di động, nay bản thân không còn nhớ thông tin tài khoản mạng xã hội Telegram cũng như số điện thoại, biển số xe ô tô khách đã giao pháo nổ.
Với các hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số 07/CT-VKS, ngày 05/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B đã truy tố bị cáo Đào Trọng H về tội "Tàng trữ hàng cấm” theo khoản 1 Điều 191/Bộ luật hình sự 2015.
Điều luật có nội dung:
“1. Người nào tàng trữ ... hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây..., thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a)...
c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;
...
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghê hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.” Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C vẫn giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đào Trọng H phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.
Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 65/BLHS, xử phạt bị cáo Đào Trọng H từ 12 tháng đến 15 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi. Thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Quá trình tranh luận: Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.
Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng là xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức án thấp nhất, xin được hưởng án treo cải tạo tại địa phương.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng và các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào hồi 20 giờ 10 phút ngày 15/12/2023 tại km 08+100 đường BOT T - C thuộc thôn L, xã Q, huyện C, tỉnh B, Đào Trọng H có hành vi tàng trữ hàng cấm là 84 thỏi pháo nổ có khối lượng là 26,5kg (hai mươi sáu phẩy năm ki lô gam) mục đích để bản thân sử dụng.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Đào Trọng H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.
Tổng hợp các chứng cứ lại, đánh giá diễn biến khách quan của vụ án thấy việc truy tố, xét xử bị cáo Đào Trọng H về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191/BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Xét tính chất hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý một số loại hàng hoá có tính năng và tầm quan trọng đặc biệt; gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Vì vậy cần phải xử lý bằng pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo Đào Trọng H có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào; được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là “Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”,“Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51/BLHS. Mặt khác bị cáo có ông nội là Đào Trọng T được Nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương cao quý, vì vậy khi lượng hình được xem xét giảm nhẹ hình phạt theo khoản 2 Điều 51/BLHS.
Đối với bị cáo trong vụ án này không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà cho bị cáo cải tạo tại địa phương thì vẫn có tính giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản và nguồn thu nhập nào, khi áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền thì không có tính khả thi, vì vậy không áp dụng đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 84 thỏi pháo nổ, tuy nhiên đã sử dụng hết trong quá trình giám định.
[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Đối với người đàn ông bán pháo nổ và giao pháo nổ cho Đào Trọng H, quá trình điều tra H khai bản thân không quen biết những người này, H không nhớ thông tin tài khoản mạng xã hội Telegram cũng như đặc điểm, số điện thoại xe khách đã liên lạc giao pháo nổ, vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ truy tìm, xác minh để xem xét vai trò, trách nhiệm của những người trên trong vụ án này.
Trong giai đoạn cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B thụ lý giải quyết thì Đào Trọng H có khai là mua pháo nổ hộ cho Đào Văn C nhà ở xã T, huyện Phú Lương, tỉnh T thông qua Hoàng Văn C là bạn học của H. Tuy nhiên Đào Văn C và Hoàng Văn C không thừa nhận, khai không biết, không tham gia, giúp sức H thực hiện hành vi phạm tội, đồng thời không có chứng cứ, tài liệu để chứng minh việc Đào Văn C, Hoàng Văn C có liên quan và biết H thực hiện hành vi phạm tội. Do đó không có cơ sở để xem xét, xử lý C và C trong vụ án này, xét thấy là phù hợp với quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Đào Trọng H phạm tội: “Tàng trữ hàng cấm” - Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 65/BLHS.
+ Xử phạt bị cáo Đào Trọng H 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi tư) tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện C, tỉnh B giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Nếu bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí: - Áp dụng điều 136/BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
+ Buộc bị cáo Đào Trọng H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
4. Về quyền kháng cáo: - Áp dụng Điều 331, 333/BLTTHS + Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 24/2024/HS-ST
Số hiệu: | 24/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về