Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 12/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOA LƯ, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 12/2024/HS-ST NGÀY 06/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 06/02/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh B mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2024/TLST-HS ngày 29/01/2024. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2024/QĐXXST-HS ngày 01/02/2024 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên Đỗ Văn V, sinh năm 1998 tại tỉnh B; giới tính: nam; tên gọi khác: không; nơi cư trú: thôn 4 Đ, xã G, huyện G, tỉnh B; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; trình độ học vấn:

12/12; nghề nghiệp: công nhân; con ông Đỗ Văn T và bà Lê Thị S; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 09/01/2024, đến ngày 11/01/2024 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay.

2. Họ và tên Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1995 tại tỉnh B; giới tính: nam; tên gọi khác: không; nơi cư trú: thôn Đ, xã X, huyện N, tỉnh B; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 06/12; nghề nghiệp: công nhân; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị L; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 09/01/2024, đến ngày 11/01/2024 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay.

Các bị cáo có mặt Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1988. Trú tại: thôn Đ, xã X, huyện N, tỉnh B. (vắng mặt)

Người làm chứng:

- Anh Lâm Quang H (vắng mặt) - Anh Lê Thái H (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do có nhu cầu mua pháo hoa nổ để chơi tết Nguyên Đán 2024 nên Đỗ Văn V rủ Nguyễn Văn Đ là người cùng Công ty TNHH C Vina, địa chỉ xã Gia Vân, huyện Gia Viễn, tỉnh B mua pháo hoa nổ, Đ đồng ý. Khoảng 8 giờ ngày 06/01/2024, V xin được của Lê Thái H sinh năm 1999, trú tại thôn N xã T, huyện H, là người làm cùng công ty với V số điện thoại 0857.087.xxx của một người bán pháo hoa nổ tên là L. Sau đó V sử dụng điện thoại nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng lắp sim số 0971.746.xxx gọi cho L hỏi mua 04 giàn pháo hoa nổ loại 36 quả, L đồng ý bán và báo giá một giàn 36 quả giá 450.000 đồng, V đồng ý và hẹn 17 giờ ngày 08/01/2024 lấy pháo. L hẹn V giao hàng tại Cầu Gián, huyện Gia Viễn, tỉnh B. V và Đ thống nhất, V lấy 01 giàn pháo hoa nổ còn Đ lấy 03 giàn pháo hoa nổ. Do chưa có tiền nên V bảo Đ trả tiền mua pháo trước rồi sau khi mua về thì V trả tiền cho Đ sau, Đ đồng ý. Đến khoảng 17 giờ ngày 08/01/2024, Đ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode màu đỏ BKS 35N1-xxxxx, là xe mượn của em gái tên là Nguyễn Thị H, chở V đi từ Công ty TNHH Đong Shin Coil Vina đến chỗ hẹn để lấy pháo. Trên đường đi L gọi điện cho V bảo còn một giàn pháo lẻ và 05 quả pháo trứng bán rẻ cho V giá 200.000 đồng, V hỏi Đ thì Đ đồng ý mua số pháo lẻ đó. Khi Đ và V đến gần chỗ hẹn thì L báo lại cho V bảo đến khu vực đường trục UBND xã Ninh Giang thuộc thôn La Mai, xã Ninh Giang, huyện H để giao hàng. Khi đến chỗ hẹn, Đ đưa cho L 1.600.000 đồng và nói còn thiếu 400.000 đồng, bảo L gửi số tài khoản cho Đ để chuyển nốt số tiền còn lại, L đồng ý và chỉ tay về phía vệ đường cách đó khoảng 6 mét có để 01 túi nilon mầu đen. V đi bộ đến lấy túi nilon mầu đen sau đó ngồi lên xe do Đ điều khiển để đi về nhà thì gặp Tổ công tác Công an xã Ninh Giang, huyện H thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. V tự giác giao nộp 01 túi nilon màu đen bên trong đựng pháo vừa mua. Tổ công tác đã đưa V, Đ về trụ sở Công an xã Ninh Giang lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Thu giữ 01 túi nilon màu đen bên trong chứa 03 hình hộp chữ nhật đều có kích thước (14,5x 14,5 x15) cm, hai mặt bọc giấy màu vàng, các mặt còn lại bọc giấy in hoa văn nhiều màu sắc, có nhiều chữ nước ngoài; 01 hình hộp kích thước (14,5x 14,5 x11,5) cm, hai mặt bọc giấy màu vàng, các mặt còn lại bọc giấy nhiều màu sắc, có hoa văn, chữ nước ngoài; 01 vật không rõ kích thước bọc bằng giấy nhiều mầu sắc, có hoa văn, chữ nước ngoài; 05 vật dạng hình bóng điện tròn sợi đốt, mầu vàng nâu, mỗi vật có đặc điểm phần cầu có đường kính 04cm, phần hình trụ có đường kính 3cm, dài 3cm phần cuối có gắn 01 đoạn dây màu xanh, chiều dài 26cm. Tổ công tác tiến hành niêm phong số vật chứng trên vào thùng cát tông theo quy định. Ngoài ra còn thu giữ của Nguyễn Văn Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J4+ màu đồng và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode màu đỏ BKS 35N1 - xxxxx; Thu giữ của Đỗ Văn V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu vàng.

Tiến hành cân khối lượng số vật chứng thu giữ của Đỗ Văn V và Nguyễn Văn Đ có tổng khối lượng là 6,3 kg.

Tại bản Kết luận giám định số 142/KL-KTHS-ChN ngày 11/01/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, kết luận :

- 05 khối hình hộp bọc giấy ký hiệu từ M1 đến M5 và 05 (năm) vật dạng hình bóng điện tròn sợi đốt ký hiệu M6 gửi giám định đều là pháo, loại pháo nổ (còn được gọi là pháo hoa nổ).

- Khối lượng của các hộp pháo nổ gửi giám định ký hiệu M1 là 1,330kg ; M2 là 1,398 kg ; M3 là 1,395 kg ; M4 là 1,402 kg và M5 là 0,836kg ; Khối lượng 05 quả pháo nổ ký hiệu M6 là 0,224 kg.

Tổng khối lượng của 05 hộp pháo nổ ký hiệu từ M1 đến M5 và 05 quả pháo nổ ký hiệu M6 gửi giám định là 6,585 kg (sáu phẩy năm trăm tám mươi lăm kilôgam).

Quá trình điều tra, các bị cáo đã khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ-VKS-HL ngày 29/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố các bị cáo Đỗ Văn V và Nguyễn Văn Đ về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1, khoản 4 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử như sau:

[1]. Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị tuyên bố bị cáo Đỗ Văn V và Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tàng trữ hàng cấm” Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Văn V từ 50.000.000đồng đến 60.000.000đồng.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 50.000.000đồng đến 60.000.000đồng.

[2]. Về xử lý vật chứng: áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 05 hộp pháo nổ ký hiệu lần lượt từ M1 đến M5 và 03 quả pháo nổ trong mẫu ký hiệu M6 còn lại sau giám định có tổng khối lượng còn lại là 5,855 kg; 01 thùng cát tông kích thước (47x25,5x30)cm và 01 túi nilon màu đen;.

- Trả lại cho Nguyễn Văn Đ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J4+ màu đồng.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu vàng thu giữ của Đỗ Văn V.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H.

Lời nói sau cùng của bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận như sau:

khoảng 17 giờ 45 phút ngày 08/01/2024, tại trục đường xã Ninh Giang thuộc thôn La Mai, xã Ninh Giang, huyện H, các bị cáo Đ và V mua 05 hộp pháo hoa nổ có khối khối lượng 6,585 kg (sáu phẩy năm trăm tám mươi lăm kilôgam) với giá 2.000.000 đồng của một người không quen biết tên L để sử dụng trong dịp tết Nguyên đán 2024 nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Tổ công tác Công an xã Ninh Giang, huyện H phát hiện và bắt quả tang.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với bản kết luận giám định số 142/KL-KTHS-ChN ngày 11/01/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B và các chứng cứ, tài liệu có liên quan khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đã đủ cơ sở pháp lý khẳng định các bị cáo Đỗ Văn V và Nguyễn Văn Đ có hành vi tàng trữ 6,585 kg pháo hoa nổ để sử dụng trong dịp tết Nguyên đán. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự thì:

1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) ...

c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;

Như vậy, hành vi nêu trên của các bị cáo Đỗ Văn V và Nguyễn Văn Đ đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi nêu trên của các bị cáo là cố ý và gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước trong quản lý, tàng trữ hàng cấm. Trong những năm qua, các hành vi sản xuất, buôn bán, vận chuyển và đốt các loại pháo nổ trái phép vào các dịp trước, trong và sau tết Nguyên đán đã gây ra nhiều ảnh hưởng xấu đến đời sống và trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Mặt khác, pháo và thuốc pháo là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều vụ cháy nổ làm thiệt hại lớn đến tính mạng, tài sản của công dân. Nhận thức được hành vi mua pháo nổ về sử dụng bị pháp luật cấm và tác hại to lớn của đốt pháo nổ như vậy nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện điều đó, chứng tỏ bị cáo có ý thức coi thường pháp luật. Trong vụ án này, hành vi phạm tội của các bị cáo Đỗ Văn V và Nguyễn Văn Đ không có tính chất tổ chức, hình thức phạm tội là đồng phạm giản đơn nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi mình gây ra với vai trò như nhau.

[2].Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: các bị cáo là người có nhân thân tốt không có tình tiết tăng nặng; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt áp dụng cho các bị cáo. Mặt khác, khi tổ tuần tra Công an huyện H nghi vấn bị cáo nên tổ tuần tra Công an huyện H đến gần để kiểm tra thì bị cáo V biết không thể che dấu được hành vi cất dấu pháo nổ của mình nên đã tự nguyện giao nộp. Do vậy, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo V là phù hợp.

[3]. Về hình phạt:

Từ sự phân tích về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra, nhân thân các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo có nhân thân tốt, và có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không cần thiết phải áp dụng loại hình phạt tù mà chỉ cần áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H cũng đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm chung.

[4].Về các vấn đề khác:

Đối với Lê Thái H: là người đã cho bị cáo V số điện thoại của L nhưng không biết việc V và Đ liên hệ mua bán pháo như thế nào và cũng không được hưởng lợi gì vì vậy không xem xét xử lý đối với H.

Đối với người bán pháo tên là L cho các bị cáo, các bị cáo không quen biết chỉ biết số điện thoại. Quá trình điều tra xác định số điện thoại 085708xxx là của Bùi Bình M ở Phú Thọ. Anh Minh xác định không quen biết L và cũng không cho ai mượn thông tin cá nhân để đăng ký số điện thoại trên. Do vậy không có căn cứ để làm rõ hành vi của người bán pháo tên Linh.

[4.1]. Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ:

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode màu đỏ đen BKS 35N1- xxxxx là của chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1998. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị Nguyễn Thị H.

- Đối với 05 hộp pháo nổ ký hiệu lần lượt từ M1 đến M5 và 03 quả pháo nổ trong mẫu ký hiệu M6 còn lại sau giám định có tổng khối lượng còn lại là 5,855 kg; 01 thùng cát tông kích thước (47x25,5x30)cm và 01 túi nilon màu đen là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J4+ màu đồng thu giữ của Nguyễn Văn Đ không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu vàng thu giữ của Đỗ Văn V, bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua pháo nên cần tịch thu để nộp ngân sách Nhà nước.

[4.2]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[5]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố các bị cáo Đỗ Văn V và Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tàng trữ hàng cấm” Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đỗ Văn V 60.000.000 (sáu mươi triệu đồng) Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 60.000.000 (sáu mươi triệu đồng)

2. Về xử lý vật chứng: áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 05 hộp pháo nổ ký hiệu lần lượt từ M1 đến M5 và 03 quả pháo nổ trong mẫu ký hiệu M6 còn lại sau giám định có tổng khối lượng còn lại là 5,855 kg; 01 thùng cát tông kích thước (47x25,5x30)cm và 01 túi nilon màu đen;.

- Trả lại cho Nguyễn Văn Đ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J4+ màu đồng.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu vàng thu giữ của Đỗ Văn V.

(Đặc điểm các vật chứng như biên bản giao vật chứng giữa công an huyện H và chi cục thi hành án huyện H ngày 30/01/2024 .

3. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng: khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc các bị cáo Đỗ Văn V và Nguyễn Văn Đ phải nộp là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 12/2024/HS-ST

Số hiệu:12/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoa Lư - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:06/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về