TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 12/2023/HS-ST NGÀY 27/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM
Trong ngày 27 tháng 3 năm 2023, tại Trụ sở Toà án nhân dân thị xã H, tỉnh N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2023/TLST- HS ngày 27 tháng 02 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2023, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn H - Tên gọi khác: Không; sinh ngày 10 tháng 3 năm 1995, tại huyện Q, tỉnh N; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn A, xã N, huyện Q, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn G, sinh năm 1963 và bà Trần Thị N (chết); vợ: Hồ Thị N, sinh năm 2001, con: Có một con sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/12/2022 đến ngày 07/01/2023, được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn G, sinh năm 1963.
Trú tại: Thôn A, xã N, huyện Q, tỉnh N (có mặt).
- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1984. Trú tại: Thôn B, xã Q, thị xã H, tỉnh N (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án tóm tắt như sau:
Ngày 27/12/2022, Nguyễn Văn H đi đến nhà vợ tại thôn L, xã Q, thị xã H để chăm sóc vợ sắp sinh, đến khoảng 10 giờ cùng ngày, H ra quán tạp hóa để mua thuốc lá, khi mua xong đi ra thì có nghe một người đàn ông đứng gần đó nói chuyện điện thoại có liên quan đến pháo, H nảy sinh ý định hỏi xem để mua pháo về nổ trong dịp tết Nguyên đán sắp tới. Nguyễn Văn H chủ động làm quen và nghe người này nói tên H trú tại phường Q, thị xã H. H hỏi người này “có pháo không, mua cho em ít hộp để tết nổ” thì người đàn ông đồng ý hẹn H đến 12 giờ trưa ngày 29/12/2022 đến khu vực ngã tư Q trao đổi trực tiếp. H ngỏ ý xin số điện thoại liên lạc thì người này không đồng ý. Sau đó, đến thời gian hẹn, H đến khu vực ngã tư xã Q thì gặp người đàn ông đang đứng đợi ở đây, sau khi thỏa thuận H mua 05 hộp pháo gồm 2 hộp loại 36 quả và 3 hộp pháo loại 49 quả, giá mỗi khối pháo 36 quả là 1.000.000 đồng, mỗi khối pháo 49 quả là 1.100.000 đồng thì người tên H hẹn H khoảng 13 giờ đi lên khu vực cổng chào giáo xứ X, thuộc phường Q, thị xã H, tỉnh N để lấy pháo. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, H điều khiển xe mô tô BKS 37L2-217.17 đi đến điểm hẹn gặp và đưa cho H số tiền 5.200.000 đồng (năm triệu, hai trăm nghìn đồng) để mua 05 hộp pháo. Sau khi nhận tiền, người đàn ông tên H chỉ H lại khu vực bờ mương gần đó để lấy pháo. H đi lại bờ mương thì thấy một túi bóng màu đen, biết bên trong có pháo nên H lấy túi bóng bỏ lên phía trước yên xe điều khiển xe đi về nhà. Đến khoảng 13 giờ 10 phút, khi H đang đi về đến khu vực thôn L, xã Q, thị xã H, H bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ 01 túi bóng màu đen bên trong chứa 05 khối hộp nghi là pháo nổ. Lực lượng Công an đã tiến hành niêm phong tang vật trong một bao tải màu vàng- hồng- trắng, thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 37L2-217.xx rồi đưa đối tượng về trụ sở làm việc.
Tại Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại ngày 29/12/2022, của cơ quan CSĐT Công an thị xã H xác định:
+ Hộp thứ nhất (ký hiệu A1): 01 (một) hộp hình hộp chữ nhật, có kích thước (17x17x10)cm, được tạo bởi 49 ống hình trụ tròn có đặc điểm giống nhau, bên ngoài được bọc bằng giấy nhiều màu sắc, có in các dòng chữ nước ngoài, nghi là pháo nổ loại 49 (bốn mươi chín) quả có khối lượng là 02kg (hai kilogam) sau khi đã loại bỏ bao bì.
+ Hộp thứ hai (ký hiệu A2): 01 (một) hộp hình hộp chữ nhật, có kích thước (16,5x16,5x10)cm, được tạo bởi 49 ống hình trụ tròn có đặc điểm giống nhau, bên ngoài được bọc bằng giấy nhiều màu sắc, có in các dòng chữ nước ngoài, nghi là pháo nổ loại 49 (bốn mươi chín) quả có khối lượng là 1,8kg (một phẩy tám kilogam) sau khi đã loại bỏ bao bì.
+ Hộp thứ ba (ký hiệu A3): 01 (một) hộp hình hộp chữ nhật, có kích thước (16,5x16,5x10)cm, được tạo bởi 49 ống hình trụ tròn có đặc điểm giống nhau, bên ngoài được bọc bằng giấy nhiều màu sắc, có in các dòng chữ nước ngoài, nghi là pháo nổ loại 49 (bốn mươi chín) quả có khối lượng là 1,8kg (một phẩy tám kilogam) sau khi đã loại bỏ bao bì.
+ Hộp thứ tư (ký hiệu A4): 01 (một) hộp hình hộp chữ nhật, có kích thước (14x14x12)cm, được tạo bởi 36 ống hình trụ tròn có đặc điểm giống nhau, bên ngoài được bọc bằng giấy nhiều màu sắc, có in các dòng chữ nước ngoài, nghi là pháo nổ loại 36 (ba mươi sáu) quả có khối lượng là 1,3kg (một phẩy ba kilogam) sau khi đã loại bỏ bao bì.
+ Hộp thứ năm (ký hiệu A5): 01 (một) hộp hình hộp chữ nhật, có kích thước (14x14x12)cm, được tạo bởi 36 ống hình trụ tròn có đặc điểm giống nhau, bên ngoài được bọc bằng giấy nhiều màu sắc, có in các dòng chữ nước ngoài, nghi là pháo nổ loại 36 (ba mươi sáu) quả có khối lượng là 1,3kg (một phẩy ba kilogam) sau khi đã loại bỏ bao bì.
Tổng 05 (năm) hộp hình chữ nhật nghi là pháp nổ có tổng khối lượng là 8,2kg (tám phẩi hai ki lô gam).
Tại Kết luận giám định số 59/KL-KTHS(Đ2-CN) ngày 04/01/2023, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: Các mẫu vật (ký hệu từ A1đến A5) thu giữ của Nguyễn Văn H gửi tới giám định đều là pháo, thuộc loại pháo nổ.
Tại bản Cáo trạng số 12/CT-VKSHM ngày 22 tháng 02 năm 2023, của Viện kiểm sát nhân dân thị xã H đã truy tố Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 191 - BLHS.
Tại phiên toà, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1, khoản 4 điều 191; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 - BLHS: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 12 (mười hai) đến 15 (mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 (hai mươi bốn) đến 30 (ba mươi) tháng.
Hình phạt bổ sung: Phạt bổ sung bị cáo số tiền từ 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) đến 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng).
Vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 - BLTTHS: Tuyên tịch thu, tiêu huỷ một túi ni lông màu đen và vỏ bao tải màu vàng - hồng - trắng (số pháo thu giữ của Nguyễn Văn H đã sử dụng hết trong quá trình giám định).
Vật chứng khác Cơ quan CSĐT Công an thị xã H đã xử lý trả lại cho chủ sở hữu đúng quy định nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo luật định.
Bị cáo nhất trí về tội danh, mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị, bị cáo không tranh luận gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 13 giờ 10 phút ngày 29/12/2022 tại thôn L, xã Q, thị xã H, tỉnh N cùng vật chứng thu giữ được. Lời khai nhận tội của bị cáo còn phù hợp với lời khai của người chứng kiến trong quá trình điều tra cũng như các tài liệu chứng, cứ khác có tại hồ sơ vụ án được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Từ đó đã xác định được khoảng 13 giờ 10 phút ngày 29/12/2022 tại thôn L, xã Q, thị xã H, tỉnh N, Công an thị xã H đã bắt quả tang Nguyễn Văn H có hành vi tàng trữ 8,2kg (tám phẩi hai ky lô gam) pháo nổ để sử dụng, nên hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ hàng cấm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 191 - BLHS như Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước mà còn gây mất trật tự trị an trên địa bàn, gây bất bình trong xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực pháp luật hình sự, ý thức được việc tàng trữ pháo nổ để sử dụng là bị pháp luật nghiêm cấm và trừng trị nhưng với thái độ xem thường pháp luật nên vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần có đường lối xử phạt nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.
[3] Xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Mặt khác bị cáo bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Văn Giang được Ban liên lạc truyền thống Sư đoàn 342 Quân khu 4 tặng kỷ niệm chương đã tham gia công tác và chiến đấu tại Sư đoàn 324 Anh hùng trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước và làm nghĩa vụ Quốc tế. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 - Bộ luật hình sự.
Xét bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi thường trú rõ ràng nên chưa cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 - BLHS như lời đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thị xã H cũng đủ nghiêm. [4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật hình sự thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo đang bị thoát vị đĩa đệm, công việc không ổn định, thu nhập thấp. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng vụ án: Một túi ni lông màu đen và vỏ bao tải màu vàng - hồng - trắng (số pháo thu giữ của Nguyễn Văn H đã sử dụng hết trong quá trình giám định) do không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu huỷ theo điểm c khoản 2 Điều 106 - BLTTHS.
Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 37L2-217.xx, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã H đã xử lý trả lại cho chủ sở hữu đúng quy định, nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.
[6] Đối với người đàn ông tên H mà H khai nhận đã bán pháo cho H ở phường Q, thị xã H, tỉnh N. Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, do không xác định được lai lịch nên không đủ cơ sở để xử lý.
[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 - BLHS:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Tàng trữ hàng cấm”.
Giao bị cáo Nguyễn Văn H về cho UBND xã N, huyện Q, tỉnh N nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo H thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại Điều 92 - Luật thi hành án hình sự năm 2019.
Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo H cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo H phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 - BLTTHS: Tịch thu, tiêu huỷ một túi ni lông màu đen và vỏ bao tải màu vàng - hồng - trắng (số pháo thu giữ của Nguyễn Văn H đã sử dụng hết trong quá trình giám định).
Tang vật trên hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã H theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24 tháng 02 năm 2023 giữa Công an thị xã H và Chi cục thi hành án dân sự thị xã H.
Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 - BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.
Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt, trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh N.
Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 12/2023/HS-ST
Số hiệu: | 12/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về