Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 109/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐNG NAI

BẢN ÁN 109/2023/HS-ST NGÀY 25/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

 Ngày 25 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 84/2023/TLST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2023/QĐXXST-HS ngày 11/5/2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Trọng H, sinh năm 1996, tại tỉnh Đ; Nơi đăng ký thường trú: Ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ học vấn: Lớp 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H1 và bà Lê Thị K; Bị cáo là con út trong gia đình có 06 anh em; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giừ từ ngày 17/01/2023 đến ngày 19/01/2023 được hủy bỏ tạm giữ; Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt).

Người làm chứng:

- Bà Lê Thị K, sinh năm 1954 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Đ

- Ông Nguyễn Trọng H2, sinh năm 1990 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Đ

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 12 năm 2022, Nguyễn Trọng H, thông qua mạng xã hội facebook đã liên lạc với một người không rõ lai lịch sử dụng mạng facebook có tài khoản tên “Mua bán pháo hoa Miền nam” để mua 11 hộp pháo hoa nổ với giá tiền 7.000.000 đồng. H mang 11 hộp pháo về nhà của H tại ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Đ để sử dụng. Đến ngày 17/01/2023, Công an xã L kiểm tra phát hiện tại nhà của Hiện có cất giấu 11 hộp pháo hoa nổ nên lập biên bản thu giữ. Cùng ngày, H ra đầu thú thừa nhận đã tàng trữ 11 hộp pháo hoa nổ vừa nêu.

Vật chứng, tài sản thu giữ gồm:

- 11 hộp giấy hình vuông giấy hình vuông, bao bì in nhiều màu sắc và có in chữ nước ngoài (đã được niêm phong).

Tại bản kết luận giám định số 1057/C09B ngày 18/01/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh - Bộ c kết luận 11 hộp pháo hoa gửi đến giám định là pháo hoa nổ. Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng là 18 kg (kilôgam).

Đối với điện thoại di động hiệu Iphone 6 và sim số 0933178168 của H dùng để liên lạc để mua pháo nhưng hiện đã bị mất nên không thu hồi được.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số: 84 /CT-VKS-NT ngày 04/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Đ truy tố Nguyễn Trọng H về tội “tàng trữ hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Trọng H về tội “tàng trữ hàng cấm” và đề nghị:

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; Các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 6 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng H mức án từ 10 (mười) đến 12 (mười hai) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo.

Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Toà tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: Tịch thu tiêu hủy 01 thùng giấy cacton trên thùng niêm phong có chữ ký xác nhận của Lê Hùng D và Phạm Văn N và dấu tròn của phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo Nguyễn Trọng H không có ý kiến gì đối với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện N và không tranh luận gì tại phiên tòa.

Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Trọng H tại phiên tòa: Bị cáo kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] về việc vắng mặt của người làm chứng: Người làm chứng là bà Lê Thị K và ông Nguyễn Trọng H2 đã có lời khai tại hồ sơ và việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 293 tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Trọng H đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định:

Vào ngày 17/01/2023 tại ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Đ, Nguyễn Trọng H đã thực hiện hành vi tàng trữ 18 kg pháo hoa nổ để sử dụng thì bị phát hiện.

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Trọng H đã phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý pháo nồ và làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và tự nhận thức được việc tàng trữ hàng cấm bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện việc phạm tội, cho thấy bị cáo không có ý thức chấp hành pháp luật.

Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Tuy nhiên, cũng xét cho bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, trong thời gian tại ngoại không vi phạm gì thể hiện tự cải tạo bản thân tốt. Nghĩ nên giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo, không cần thiết giam giữ mà cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên Tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; Bị cáo, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi thực hiện hành vi, bị cáo đã ra đầu thú. Do đó Hội đồng xét xử xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy: Tịch thu tiêu hủy 01 thùng niêm phong sau giám định có chữ ký xác nhận của Phạm Văn N1, Lê Hùng D và dấu tròn của khoa học Hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh (C09B).

[7] Đối với đối tượng bán, giao pháo hoa nổ cho H, do chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 293, 298, 299, 326, 327, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng H phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 6 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng H 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 08 (tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao Nguyễn Trọng H cho Ủy ban nhân dân xã L, huyện N, tỉnh Đ theo dõi, giám sát, giáo dục.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

3. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng các Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 thùng niêm phong sau giám định có chữ ký xác nhận của Phạm Văn N1, Lê Hùng D và dấu tròn của khoa học Hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh (C09B).

(Vật chứng nêu trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện N đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11/4/2023)

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Trọng H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 109/2023/HS-ST

Số hiệu:109/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về