TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 10/2024/HS-ST NGÀY 23/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM
Ngày 23 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự thụ lý số: 14/2024/TLST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2024/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 02 năm 2024, đối với:
1. Bị cáo: Nguyễn Văn Q; sinh năm 2000; nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị T; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị tạm giữ từ ngày 08/01/2024 đến ngày 11/01/2024 được tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Bá N; sinh năm 1995; nơi cư trú: số nhà H, thôn L, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào giữa tháng 12 năm 2023, Nguyễn Văn Q thấy trang facebook “Pháo.bi” quảng cáo bán pháo bi và pháo thái lan. Do có nhu cầu sử dụng pháo trong dịp tết nguyên đán, Q nhắn tin thỏa thuận mua 06 hộp pháo loại 49 viên/hộp với số tiền là 3.000.000 đồng. Sau khi thỏa thuận, Q đến khu vực vắng người thuộc thôn L, xã T, huyện D, Lâm Đồng nhận từ một người đàn ông không rõ lai lịch 06 hộp pháo và trả cho người này 03 thẻ Zing trị giá là 3.000.000 đồng, sau đó Q mang pháo đến chòi ở vườn cà phê của gia đình để cất giấu. Vào khoảng 23 giờ 00 ngày 31/12/2023 (đêm giao thừa tết dương lịch), Q đem một hộp pháo ra đốt nên còn 5 hộp pháo.
Bằng phương thức như trên, vào ngày 04/01/2024 Q tiếp tục mua thêm 05 hộp pháo cùng loại của chủ tài khoản facebook “Pháo.bi” và đem giấu vào bụi cây thuộc thôn L, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Đến khoảng 10 giờ ngày 08/01/2024, Q mượn xe mô tô BS 49G1-567xx của anh Phạm Bá N đến chở pháo về nhà thì bị cơ quan Công an kiểm tra bắt quả tang và thu giữ 05 hộp pháo, sau đó Q tự nguyện khai báo và giao nộp thêm 05 hộp pháo còn lại. Cơ quan Công an đã thu giữ của Q 10 hộp pháo; 01 điện thoại di động hiệu Iphone và 01 xe mô tô BKS: 49G1 - 562.xx. Quá trình điều tra Q xác định mua pháo để sử dụng và cho người thân, bạn bè đốt trong dịp tết nguyên đán nhưng chưa kịp cho ai. Kết quả kiểm tra điện thoại Iphone thu giữ của Q không phát hiện thông tin liên quan đến việc mua bán pháo. Đối với chiếc xe mô tô BKS: 49G1 - 562.xx có giấy chứng nhận đăng ký đứng trên của Nguyễn Văn Q nhưng Q đã lập giấy bán và giao xe cho anh N sử dụng từ ngày 28/10/2024 chưa lập thủ tục chuyển quyền sở hữu theo quy định của pháp luật (giấy bán xe ngày 28/10/2024 có xác nhận của cơ quan Công an xã T). Nguyễn Văn Q và anh N đều khai, vào ngày 08/01/2024 Q nói mượn xe mô tô của anh N đi mua đồ nên anh N không biết Q sử dụng xe để vận chuyển pháo nổ. Cơ quan Điều tra đã bàn giao điện thoại và xe mô tô nói trên đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Di Linh chờ xử lý.
Quá trình điều tra, Công an huyện D tiến hành trưng cầu giám định đối với 10 hộp pháo thu giữ được của Nguyễn Văn Q. Tại kết luận giám định số: 75/GĐ-KTHS ngày 16/01/2024 của Phòng K Công an tỉnh L kết luận: “Mười (10) khối hình hộp chữ nhật (trong đó 01 hộp “KS4-49B”, 02 hộp “KS4-49A, 07 hộp “KS4-4911L), bên trong mỗi khối chứa bốn mươi chín (49) viên hình trụ tròn, mỗi viên đường kính 2,3 cm cao 10 cm gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo, khi đốt gây tiếng nổ) có tổng khối lượng là 15,6kg”. Kết thúc điều tra, cơ quan Công an đã gửi số pháo còn lại sau giám định tại kho của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh L.
Tại bản Cáo trạng số: 18/CTr-VKS ngày 05/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố và đề nghị xét xử theo thủ tục rút gọn đối với Nguyễn Văn Q về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Q thừa nhận đã thực hiện hành vi nhu đã nêu ở trên, thừa nhận bản thân đã phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt. Về phía anh Phạm Bá N khẳng định đã mua và sử dụng chiếc xe mô tô BKS: 49G1 - 562.xx từ ngày 28/10/2024. Vào ngày 08/01/2024, Q nói mượn xe của anh đi mua đồ nên anh không biết Q sử dụng xe để vận chuyển pháo nổ. Nay anh đề nghị được nhận lại xe mô tô để sử dụng.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q về tội tàng trữ hàng cấm là đúng pháp luật. Đề nghị tuyên bố bị cáo phạm tội tàng trữ hàng cấm; áp dụng Điều 35, Điều 50, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự, áp dụng phạt tiền là hình phạt chính xử phạt bị cáo từ 60.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng. Trả cho bị cáo chiếc điện thoại Iphone do không liên quan đến hành vi phạm tội. Trả cho anh Phạm Bá N chiếc xe mô tô BKS: 49G1 - 562.xx. Tịch thu tiêu hủy số pháo nổ còn lại. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện D, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người liên quan không khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Q thừa nhận vào ngày 08/01/2024 tại xã T, huyện D, Lâm Đồng, bị cáo đã cất giấu trái phép 15,6kg pháo nổ với mục đích để sử dụng, thừa nhận Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ hàng cấm” là đúng người, đúng tội. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án nhu: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ, niêm phong vật chứng ngày 08/01/2024; Kết luận giám định số: 75/GĐ-KTHS ngày 16/01/2024 của Phòng K Công an tỉnh L. Do đó, có căn cứ khẳng định hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Q đã phạm vào tội "Tàng trữ hàng cấm" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.
[3] Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, không có tình tiết tăng nặng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; sau khi bị phát hiện về hành vi tàng trữ 05 hộp pháo nổ, bị cáo đã tự nguyện khai báo và giao nộp thêm 05 hộp pháo nổ cất giấu ở nơi khác. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với bị cáo là phù hợp và có căn cứ pháp luật nên cần chấp nhận.
[5] Đối với người bán pháo cho bị cáo chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan Điều tra tiếp tục xác minh xử lý. Đối với chiếc xe mô tô BKS: 49G1 - 562.xx của anh Phạm Bá N cần trả cho chủ sở hữu là phù hợp. Đối với 01 chiếc điện thoại di động của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả cho bị cáo nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án. Đối với số pháo nổ còn lại và bao gói vật chứng cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về án phí: cần buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191, Điều 35, Điều 50, các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng).
2. Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu, tiêu hủy 10 (mười) khối hình hộp chữ nhật, nên ngoài dán giấy nhiều màu có chữ nước ngoài (trong đó có 01 hộp “KS4-49B”, 02 hộp “KS4- 49 A”, 07 hộp “KS4-4911L”; bên trong mỗi khối đều chứa 48 (bốn mươi tám) viên pháo hình trụ tròn đồng dạng, mỗi viên đường kính 2,3cm, cao 10cm được nối với nhau bằng sợi dây truyền từ trong thân ra. Tất cả mẫu vật sau giám định chứa trong các thùng giấy hình hộp chữ nhật ký hiệu A1, A2 được dán niêm phong, trên giấy niêm phong có chữ ký ghi họ tên “Võ Như T1”, “Nguyễn Đức T2” và hình dấu tròn đỏ có nội dung: “CÔNG AN TỈNH LÂM ĐỒNG - PHÒNG K” (Vật chứng này được Công an huyện D gửi tại kho của Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh L theo mục 1 Lệnh nhập kho số 02/VC-LNK-2024 ngày 01/02/2024 của Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh L).
- Trả cho anh Phạm Bá N 01 xe mô tô mang biển kiểm soát: 49G1 - 562.xx; trả cho bị cáo Nguyễn Văn Q nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án đối với 01 điện thoại di động được niêm phong trong phong bì giấy có chữ ký của “Nguyễn Đức T2”, “Phạm Văn T3”, “Nguyễn Văn Q”, “Bùi Đăng T4” và dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát Điều tra công an huyện D (các vật chứng này đã được Công an huyện D bàn giao cho Chỉ cục Thi hành án dân sự huyện Di Linh theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/02/2024).
3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ có quyền kháng cáo đối với phần bản án trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình).
Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 10/2024/HS-ST
Số hiệu: | 10/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về