TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 08/2024/HS-ST NGÀY 15/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM
Ngày 15 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2024/TLST- HS ngày 26 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2024/QĐXXST-HS ngày 26/01/2024 đối với bị cáo:
Lê Văn N, sinh năm 1989, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Bon P, xã ĐN, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hoá: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn S và bà Ngô Thị T; có vợ là Nguyễn Thị Th và 05 con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2023; tiền án, tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 13/12/2023 sau đó chuyển tam giam đến nay - Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1990 – có mặt.
Địa chỉ: Bon P, xã ĐN, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng cuối tháng 11/2023, Lê Văn N lên mạng xã hội qua ứng dụng Facebook tìm các trang mạng có bán pháo hoa trao đổi đặt mua 11 hộp pháo hoa nổ, loại dàn 49 viên và 01 hộp pháo hoa nổ, loại dàn 100 viên của một người không rõ nhân thân lai lịch, với giá 500.000 đồng/01 hộp loại dàn 49 viên và 800.000 đồng/01 hộp loại dàn 100 viên. Quá trình thỏa thuận mua bán hai bên thống nhất giao pháo tại khu vực chợ QT thuộc xã QT, huyện ĐL; vài ngày sau (không nhớ ngày cụ thể), N được một người đàn ông gọi ra điểm hẹn để nhận hàng. Sau đó, N đi ra khu vực chợ QT nhận 12 hộp pháo qua xe khách (không xác định biển số xe và nhà xe) và thanh toán số tiền 6.300.000 đồng cho nhà xe. N đem 12 hộp pháo về cất giấu tại nhà của mình thuộc Bon P, xã ĐN, huyện TĐ với mục đích để chơi Tết và ai có N cầu thì N sẽ chia lại.
Sáng 13/12/2023, N uống cà phê tại khu vực ngã ba TS thuộc bon P, xã ĐN thì gặp một người đàn ông không rõ nhân thân, hỏi N có biết ai bán pháo không. Quá trình nói chuyện người đàn ông hỏi mua 07 hộp pháo hoa loại dàn 49 viên. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Exciter, màu xanh, BKS: 48K1-117.xx, phía sau yên xe chở 01 thùng giấy màu vàng đỏ, bên trong đựng 06 hộp pháo hoa nổ, các hộp pháo có kích thước (17 x17 x 10) cm có họa tiết màu đỏ vàng, in dòng chữ “49 SHOT CAKE FL 2049”, bên trong mỗi hộp chứa 49 ống hình trụ tròn; phía trước khung xe chở 01 bao tải màu đỏ, bên trong đựng 01 hộp pháo hoa nổ, hộp có kích thước (17 x 17 x 10) cm có họa tiết màu đỏ vàng, in dòng chữ “49 SHOT CAKE FL 2049", bên trong hộp giấy chứa 49 ống hình trụ tròn, đi trên đường nhựa thuộc thôn TB, xã ĐN, huyện TĐ thì bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức phát hiện bắt quả tang. Thu giữ 07 hộp pháo hoa nổ có khối lượng 12,70 kilogam và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Exciter, màu xanh, BKS: 48K1-117.xx .
Sau khi bị bắt quả tang N tự nguyện giao nộp 04 hộp pháo hoa nổ, các hộp pháo có kích thước (17 x 17 x 10) cm có hoa văn màu đỏ vàng, trên mỗi hộp pháo có in dòng chữ “49 SHOT CAKE FL 2049”, bên trong mỗi hộp pháo chứa 49 ống hình trụ tròn và 01 hộp pháo hoa nổ, hộp pháo có kích thước (24 x 24 x 10) cm có hoa văn màu xanh, trên hộp giấy có in dòng chữ “KS4- 10011”, bên trong hộp giấy chứa 100 ống hình trụ tròn. Tổng khối lượng 05 hộp pháo hoa nổ N giao nộp là 10,30 kilogam.
Tại Bản kết luận giám định số 166/KL-KTHS ngày 22/12/2023, Phân Viện Khoa Học Hình sự - Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
- 07 (bảy) khối hình hộp chữ nhật, có kích thước 17cm x 17cm x 10cm bên ngoài bọc giấy nhiều họa tiết có ghi dòng chữ “49 SHOT CAKE FL 2049", bên trong mỗi khối có 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm gửi giám định là pháo nổ (pháo hoa nổ). Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng là 12,7kg.
- 04 (bốn) khối hình hộp chữ nhật, có kích thước 17cm x 17cm x 10cm, bên ngoài bọc giấy nhiều họa tiết có ghi dòng chữ “49 SHOT CAKE FL 2049", bên trong mỗi khối có 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm và 01 (một) khối hình hộp chữ nhật có kích thước 24cm x 24cm x10cm, bên trong có 100 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm gửi giám định là pháo nổ (pháo hoa nổ). Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng là 10,3 kg.
Tổng khối lượng pháo là 23 kg. (Mẫu vật hoàn lại sau giám định 08 hộp).
Tại bản Cáo trạng số 12/CT-VKS-TĐ ngày 26 tháng 01 năm 2024, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức đã truy tố bị cáo Lê Văn N về tội “Tàng trữ hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Văn N mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm.
Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị chấp nhận việc cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức đã trả lại 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Exciter, màu xanh, BKS 48K1 – 117.xx cho chị Nguyễn Thị X là chủ sở hữu hợp pháp.
Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức tiêu hủy 08 hộp pháo hoa (hoàn lại sau giám định).
Tại phiên toà bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 13/12/2023 tại đoạn đường nhựa thuộc thôn TB, xã ĐN, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức bắt quả tang Lê Văn N đang có hành vi tàng trữ 07 hộp pháo hoa nổ có khối lượng 12,70 kg. Sau đó, Lê Văn N tự nguyện giao nộp thêm 04 hộp pháo hoa nổ có khối lượng 10,3 kg. Tổng khối lượng pháo hoa nổ là 23 kg.
Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức truy tố bị cáo Lê Văn N về tội “Tàng trữ hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Điều 191 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các Điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
… c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;
…” [3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự chung tại địa phương. Để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ý thức chấp hành pháp luật cũng như răn đe phòng ngừa chung trong xã hội cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt đủ nghiêm minh tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình bị cáo cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục với bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản riêng. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố Nhà nước tại phiên tòa là phù hợp cần chấp nhận.
[7] Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, việc cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức đã trả lại 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Exciter, màu xanh, BKS 48K1 – 117.xx cho chị Nguyễn Thị X là chủ sở hữu hợp pháp, là phù hợp cần chấp nhận.
Việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức tiêu hủy 08 hộp pháo hoa (hoàn lại sau giám định) là phù hợp, cần chấp nhận.
[8] Đối với người bán pháo cho Lê Văn N là tài khoản trên mạng xã hội do Lê Văn N sử dụng tài khoản ảo để đặt hàng không tìm lại được nên không có căn cứ để xác minh.
Đối với người đàn ông mua pháo của Lê Văn N hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức sẽ tiếp tục xác minh khi có căn cứ sẽ xử lý.
Đối với chị Nguyễn Thị X là chủ sở hữu chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Exciter, màu xanh, BKS: 48K1-.117.75 cho Lê Văn N mượn xe với mục đích để đi lại, không biết việc N sử dụng làm phương tiện phạm tội nên không đề cập xử lý.
luật.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp [10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lê Văn N phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.
Áp dụng điểm c khoản 1 điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Văn N 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 05/02/2024.
Áp dụng khoản 4 Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình tự, tuyên trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.
Giao bị cáo Lê Văn N cho Ủy ban nhân dân xã Đắk Ngo và gia đình bị cáo giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Lê Văn N cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên, thì Tòa án có thể buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
- Về án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Văn N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 08/2024/HS-ST
Số hiệu: | 08/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về