Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 08/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 08/2024/HS-ST NGÀY 04/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 04/03/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông, Tòa án nhân dân huyện Cư Jút xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 03/2024/TLST-HS ngày 29/01/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2024/QĐXXST-HS ngày 22/02/2024 đối với bị cáo:

Lê Đại H, sinh năm 1998 tại tỉnh Đắk Lắk (cũ) nay là tỉnh Đắk Nông; nơi cư trú: Thôn 02, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Lê Thanh Ph và bà Phạm Thị H; bị cáo có vợ là Nguyễn Như Q, có 02 con, lớn nhất sinh năm 2018, nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 29/12/2023 đến ngày 07/01/2024; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 07/01/2024 đến nay - có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Chị Nguyễn Như Q – có mặt;

Địa chỉ: Thôn 02, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

Người chứng kiến:

2/ Ông Nguyễn Văn H – vắng mặt;

3/ Ông Lương Văn Kh – vắng mặt;

Cùng địa chỉ: Thôn 06, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ ngày 29/12/2023, Lê Đại H đang chơi điện tử trên máy tính tại quán internet ở thôn 03, xã Đ, huyện Đ trong khi lướt mạng xã hội Facebook thì H thấy có một tài khoản (không rõ thông tin chủ tài khoản) có đăng bán pháo hoa nổ, nên H đã nhắn tin hỏi mua 04 giàn pháo hoa loại 49 ống và 100 quả pháo loại pháo ông sư với số tiền 4.000.000 đồng về mục đích để chơi trong dịp tết nguyên đán năm 2024. Hai bên thỏa thuận nơi giao nhận hàng và thanh toán tiền ở khu vực đường đất giáp ranh giữa xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông với xã C, huyện C, tỉnh Đắk Nông. Đến khoảng 16 giờ 15 phút cùng ngày, H nhờ bạn là Phạm Minh T (sinh năm 1997; trú tại: Thôn 03, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông) đến nhà H ở thôn 02, xã Đ, huyện Đ để chở đi công việc. Sau đó, H lấy xe mô tô nhãn hiệu Future mang biển kiểm soát (BKS) 48E1-X của Nguyễn Như Q (là vợ Lê Đại H) đưa cho T điều khiển, H ngồi phía sau xe chỉ đường đi cho T. T chở H đến khu vực đường đất thuộc thôn 06, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Nông, thì H thấy một người đàn ông (không rõ nhân thân) đang ngồi trên xe mô tô bên cạnh có một bao tải màu vàng nên nói T dừng xe đứng đợi, H một mình đi đến chỗ người đàn ông và hỏi “chú có đồ cho cháu hả” thì người này nói “ừ”, H đưa số tiền 4.000.000 đồng cho người này và cầm bao tải màu vàng bên trong có pháo nổ đi đến chỗ T đợi rồi nói T chở về nhà. Khi đang đi trên đoạn đường thuộc thôn 06, xã C thì T và H bị lực lượng Công an huyện Cư Jút ra tín hiệu dừng xe để kiểm tra, thấy vậy H ôm bao tải đựng pháo nổ nhảy xuống đường thì bị lực lượng Công an giữ lại, T tiếp tục điều khiển xe bỏ chạy. Qua kiểm tra, trong bao tải màu vàng phát hiện 04 khối hình hộp chữ nhật có kích thước (17x17x10)cm, được bọc giấy có nhiều hoa văn màu sắc và có chữ bằng tiếng nước ngoài (nghi là pháo nổ) và 100 vật thể được gói bằng giấy, một đầu hình trụ, một đầu hình cầu, bên trên các vật đều gắn dây màu xanh (nghi là pháo nổ) được niêm phong trong một thùng carton dán giấy niêm phong có chữ ký của Lê Đại H, Nguyễn Văn H, Lương Văn Kh, Đặng Duy Q và dấu tròn đỏ của Công an xã C.

Quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút đã chứng minh được 10,5715 kilôgam pháo nổ thu giữ trong khi bắt quả tang là của Lê Đại H. Mục đích H mua pháo nổ về để sử dụng đốt trong dịp tết nguyên đán năm 2024.

Tại Bản Kết luận giám định số 10/KL-KTHS ngày 05/01/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: 04 khối hình hộp chữ nhật có kích 2 thước (17x17x10)cm, được bọc giấy có nhiều màu sắc và in chữ nước ngoài được niêm phong trong thùng giấy catton gửi giám định đều là pháo nổ, có khối lượng 6,7830 kilôgam; 100 vật được gói bằng giấy, một đầu có dạng hình trụ, một đầu có dạng hình cầu, trên các vật đều gắn dây màu xanh được niêm phong trong thùng giấy catton gửi giám định đều là pháo nổ, khối lượng 3,7885kilôgam. Tổng khối lượng pháo nổ là 10,5715 kilôgam.

Vật chứng thu giữ:

- 04 khối hình hộp chữ nhật có kích thước (17x17x10)cm, được bọc giấy có nhiều hoa văn màu sắc và có chữ bằng tiếng nước ngoài và 100 vật thể gói bằng giấy, một đầu hình trụ, đầu có dạng hình cầu, trên các vật đều gắn dây màu xanh được niêm phong trong một thùng giấy catton dán giấy niêm phong có chữ ký của Lê Đại H, Nguyễn Văn H, Lương Văn Kh, Đặng Duy Q và dấu tròn đỏ của Công an xã C;

- 01 bao tải màu vàng, đã qua sử dụng.

Quá trình điều tra, đã xác định: 01 xe mô tô mang BKS 48E1-X mà Lê Đại H sử dụng để đi mua pháo nổ vào ngày 29/12/2023 là xe của Nguyễn Như Q (vợ của Lê Đại H) đứng tên đăng ký sở hữu. Khi H lấy xe để đi mua pháo nổ thì chị Q không biết, ngoài ra khi bắt quả tang H thì Phạm Minh T (là người H nhờ chở đi) đã điều khiển xe bỏ chạy, đến nay chưa rõ ở đâu nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút không thu giữ được. Đối với 01 bao tải màu vàng, đã qua sử dụng được dùng để đựng số pháo nổ là của H mua cùng với số pháo nổ vào ngày 29/12/2023.

Bản Cáo trạng số 07/CTr-VKS, ngày 29/01/2024, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút đã truy tố bị cáo Lê Đại H về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo điểm c, khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự (BLHS).

Sau khi phân tích các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Lê Đại H phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Xử phạt bị cáo Lê Đại H từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 tháng đến 24 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 của BLHS; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS):

- Tịch thu tiêu hủy: 6,7420 kilôgam pháo nổ còn lại sau giám định của mẫu khối hình hộp chữ nhật có kích thước (17x17x10) cm, được bọc giấy có nhiều màu sắc và có in chữ nước ngoài; 3,7130 kilôgam pháo nổ còn lại sau giám định của mẫu 3 vật gói bằng giấy, một đầu có dạng hình trụ, một đầu có dạng hình cầu, trên các vật đều gắn dây màu xanh. Các mẫu hoàn trả được đựng trong một thùng giấy, bên ngoài thùng được dán giấy niêm phong có chữ ký giáp lai của giám định viên, trợ lý giám định, đại diện Công an huyện Cư Jút và dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông; 01 bao tải màu vàng, đã qua sử dụng.

Tại phiên tòa bị cáo không bào chữa, không tranh luận gì mà chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi của Điều tra viên, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với hành vi của bị cáo HĐXX thấy rằng: Vào lúc 17 giờ 15 phút ngày 29/12/2023, tại đoạn đường thuộc thôn 06, xã C, huyện C, tỉnh Đăk Nông, lực lượng Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Jút bắt quả tang Lê Đại H có hành vi tàng trữ hàng cấm, thu giữ trong bao tải màu vàng của H: 04 khối hình hộp chữ nhật có kích thước (17x17x10) cm, được bọc giấy có nhiều màu sắc và in chữ nước ngoài là pháo nổ, có khối lượng 6,7830 kilôgam; 100 vật được gói bằng giấy, một đầu có dạng hình trụ, một đầu có dạng hình cầu, trên các vật đều gắn dây màu xanh đều là pháo nổ, có khối lượng 3,7885 kilôgam. Tổng khối lượng pháo nổ bị cáo H tàng trữ là 10,5715 kilôgam. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

Điều 191. Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm “1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các Điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;

…” Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại hàng hóa cấm tàng trữ, vận chuyển và gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội ở địa phương. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6]. Xét về nhân thân bị cáo HĐXX thấy rằng: Bị cáo H có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, bị cáo có 02 con nhỏ là lao động chính trong gia đình và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng thêm Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo, để bị cáo có cơ hội được tiếp tục học tập, rèn luyện và tu dưỡng về đạo đức, lối sống để trở thành công dân có ích cho xã hội.

[7]. Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật, phù hợp tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.

[8] Đối với việc Lê Đại H khai ngày 29/12/2023 mua pháo nổ của một người đàn ông tại khu vực đường đất thuộc thôn 06, xã C nhưng hiện nay chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút sẽ tiếp tục điều tra xác minh làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với Phạm Minh T là người chở bị cáo H đi mua pháo, cơ quan CSĐT đã tổ chức điều tra, xác minh nhưng đối tượng Tuấn không có mặt ở địa phương nên chưa làm việc được. Ngoài ra, bị cáo H khai chỉ nhờ T chở đi công việc không nói cho T biết là đi mua pháo nổ, do vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút sẽ tiếp tục điều tra xác minh làm rõ, nếu có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

5 Đối với Nguyễn Như Q là chủ sở hữu xe mô tô 48E1-X, ngày 29/12/2023 bị cáo H đã sử dụng xe mô tô trên nhờ Phạm Minh T chở đi mua pháo nổ để đem về sử dụng thì chị Q không biết nên không có căn cứ xử lý.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, c khoản 1 Điều 47 của BLHS; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy: 6,7420 kilôgam pháo nổ còn lại sau giám định của mẫu khối hình hộp chữ nhật có kích thước (17x17x10) cm, được bọc giấy có nhiều màu sắc và có in chữ nước ngoài; 3,7130 kilôgam pháo nổ còn lại sau giám định của mẫu vật gói bằng giấy, một đầu có dạng hình trụ, một đầu có dạng hình cầu, trên các vật đều gắn dây màu xanh. Các mẫu hoàn trả được đựng trong một thùng giấy, bên ngoài thùng được dán giấy niêm phong có chữ ký giáp lai của giám định viên, trợ lý giám định, đại diện Công an huyện Cư Jút và dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông; 01 bao tải màu vàng, đã qua sử dụng.

[10]. Hình phạt bổ sung: HĐXX xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Đại H phạm tội“Tàng trữ hàng cấm”.

[1]. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Đại H 12 (Mười hai) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Lê Đại H cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông phối hợp cùng với gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2]. Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, c khoản 1 Điều 47 của BLHS; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS:

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 6,7420 kilôgam pháo nổ còn lại sau giám định của mẫu khối hình hộp chữ nhật có kích thước (17x17x10) cm, được bọc giấy có nhiều màu sắc và có in chữ nước ngoài; 3,7130 kilôgam (kg) pháo nổ còn lại sau giám định của mẫu vật gói bằng giấy, một đầu có dạng hình trụ, một đầu có dạng hình cầu, trên các vật đều gắn dây màu xanh. Các mẫu hoàn trả được đựng trong một thùng giấy, bên ngoài thùng được dán giấy niêm phong có chữ ký giáp lai của giám định viên, trợ lý giám định, đại diện Công an huyện Cư Jút và dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông; 01 (một) bao tải màu vàng, đã qua sử dụng.

[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Đại H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4]. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án phần liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày kể tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 08/2024/HS-ST

Số hiệu:08/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Jút - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về