Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 08/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GT, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 08/2021/HSST NGÀY 23/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Trong ngày 23 tháng 11 năm 2021, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện GT, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 09/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo: Nguyễn Thị C, sinh ngày 01/01/1974. Tại GT – Kiên Giang;

Nơi cư trú: ấp K, xã T, huyện GT, tỉnh Kiên Giang.

Nghề nghiệp: Nội trợ; Trình độ văn hóa: 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Mới và bà Dương Thị Nhỏ; Tiền án, tiền sự: Không.

Ngày 22/5/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện GT đã tạm giữ Nguyễn Thị C đến ngày 25 tháng 5 năm 2021 khởi tố vụ án Tàng trữ hàng cấm để điều tra, ngày 31 tháng 5 năm 2021 khởi tố bị can Nguyễn Thị C về tội Tàng trữ hàng cấm và ra và ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú (Bút lục: 06 đến 41; 48 đến 115). (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1.Nguyễn Bá T (Xịt), sinh năm 1998. (Có mặt) Địa chỉ: ấp K, xã T, huyện GT, tỉnh Kiên Giang.

2. Lâm Văn C2, sinh năm 2000. (Có mặt) Địa chỉ: ấp K, xã T, huyện GT, tỉnh Kiên Giang.

3. Trần Văn K, sinh năm 1997. (Có mặt) Địa chỉ: ấp Đ, xã V, huyện GT, tỉnh Kiên Giang.

4. Lâm Văn H, sinh năm 1971. (Có mặt) Địa chỉ: ấp K, xã T, huyện GT, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 22/5/2021, lực lượng tuần tra Công an huyện GT phối hợp Đồn Biên phòng cửa khẩu GT thi hành Quyết định số 879/QĐ-KNCGTVPT ngày 22/5/2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện GT về việc khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với nơi ở của Nguyễn Thị C tại ấp K, xã T, huyện GT, tỉnh Kiên Giang. Qua khám xét, phát hiện bên trong nhà bà C có chứa 1.795 (một nghìn bảy trăm chín mươi lăm) bao thuốc lá ngoại gồm (1.689 bao thuốc lá điếu hiệu HERO, 20 bao thuốc lá điếu hiệu JET và 86 bao thuốc lá hiệu CANYON), ngoài ra phát hiện tại hầm bê tông đất trống khu vực cặp bên nhà C có chứa 3.000 (ba nghìn) bao thuốc lá điếu ngoại (gồm 1.500 bao thuốc lá điếu hiệu HERO và 1.500 bao thuốc lá điếu hiệu JET). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện GT đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thị C. Qua điều tra, Nguyễn Thị C đã thừa nhận đã có hành vi tàng trữ 1.795 bao thuốc lá ngoại trong nhà (gồm 1.689 bao thuốc lá điếu hiệu HERO, 20 bao thuốc lá điếu hiệu JET và 86 bao thuốc lá hiệu CANYON), riêng đối với 3.000 bao thuốc lá điếu (gồm 1.500 bao thuốc lá điếu hiệu HERO và 1.500 bao thuốc lá điếu hiệu JET) bà C không biết là của ai. Nguồn gốc 1.795 bao thuốc lá ngoại trong nhà của Nguyễn Thị C là vào khoảng tháng 8 năm 2020 Nguyễn Thị C đến khu vực biên giới Việt Nam - Camphuchia gặp người đàn ông lạ mặt (không rõ nhân thân lý lịch) để mua 2.000 bao thuốc là hiệu Hero, Zet và Canyon để đưa về nhà tại ấp K, xã T, huyện GT, tỉnh Kiên Giang, mục đích là để cho khách sử dụng trong đám cưới của con ruột tên Lâm Minh C2 và cho người thân trong gia đình sử dụng, còn lại 1.795 bao tàng trữ trong nhà thì bị bắt quả tang.

* Vật chứng vụ án:

- 01 (một) thiết bị lưu trữ điện tử (đầu thu Camera) màu trắng, nhãn hiệu HIKVISION, Model: DS - 7104N1 - Q1/4P, Seri: C26443772, Made in China.

Hiện đã trả lại cho bị can Nguyễn Thị C (Bút lục: 38; 45 đến 46).

- 3.189 (ba ngàn một trăm tám mươi chín) bao thuốc lá ngoại nhãn hiệu HERO; 1.520 (một ngàn năm trăm hai mươi) bao thuốc lá ngoại nhãn hiệu ZET;

86 (tám mươi sáu) bao thuốc lá ngoại nhãn hiệu CANYON. Hiện đang bảo quản tại kho vật chứng thuộc Đội Cảnh sát Thi hành án Hình sự và hỗ trợ Tư pháp Công an huyện GT (Bút lục 38 đến 41).

Tại bản Cáo trạng số 08/CT-VKSGT ngày 11/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện GT đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị C về tội "Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị C phạm tội "Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Về hình phạt, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 191; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị C từ 03 (ba) đến 06 (sáu) tháng tù giam.

Đối với trường hợp Nguyễn Bá T (Xịt) và Trần Văn K khai nhận đã có hành vi vận chuyển thuốc lá ngoại cho người đàn ông lạ mặt nhưng không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện GT không đủ chứng cứ để làm cơ sở xử lý.

- Về các biện pháp tư pháp, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Tịch thu tiêu hủy: 1.795 (một nghìn bảy trăm chín mươi lăm) bao thuốc lá ngoại gồm:

+ 1.689 (một nghìn sáu trăm tám mươi chín) bao thuốc lá điếu nhẫn hiệu HERO.

+ 20 (hai mươi) bao thuốc lá nhãn hiệu JET.

+ 86 (tám mươi sáu) bao thuốc lá điếu nhãn hiệu CANYON.

Đối với 3.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm 1.500 bao thuốc lá điếu hiệu HERO và 1.500 bao thuốc lá điếu hiệu JET) phát hiện tại hầm bê tông đất trống khu vực cặp bên nhà bị cáo. Trong quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện GT chưa xác định được đối tượng phạm tội nên đã tách hồ sơ ra và tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau.

Đối với 01 (một) thiết bị lưu trữ điện tử (đầu thu Camera) màu trắng, nhãn hiệu HIKVISION, Model: DS - 7104N1 - Q1/4P, Seri: C26443772, Made in China. Hiện đã trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị C nên đề nghị HĐXX không xét.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Đề nghị tuyên buộc bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Được nói lời nói sau cùng, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là các ông Nguyễn Bá T (Xịt), Lâm Văn C2, Trần Văn K và ông Lâm Văn H hoàn toàn thống nhất với nội dung cáo trạng truy tố bị cáo cũng như những tình tiết liên quan đến vụ án. Các ông không có yêu cầu nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Điều 35, Điều 37 và Điều 58 của Bộ luật Tố tụng hình sự và hợp pháp. Các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra Công an huyện GT, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện GT, Kiểm sát viên thu thập; các tài liệu, chứng cứ bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác cung cấp đều phù hợp quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về chứng cứ. Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo cụ thể như sau:

Vào khoảng tháng 8 năm 2020, bị cáo đến khu vực biên giới Việt Nam- Campuchia gặp một người đàn ông lạ mặt không rõ nhân thân lý lịch mua 2.000 bao thuốc lá hiệu Hero, Jet, và Cayon. Mục đích là để đãi khách dự đám cưới của con ruột, còn lại bao nhiêu thì để ở nhà cho người thân sử dụng.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cùng với các tình tiết đã được thẩm tra tại phiên tòa, nên có đủ cơ sở kết luận: bị cáo Nguyễn Thị C đã phạm tội “Tàng trữ hàng cấm” được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 191 của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) điểm b khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự nêu:

“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng từ 50 kilôgam đến dưới 100 kilôgam hoặc từ 50 lít đến dưới 100 lít;

b) Thuốc lá điếu nhập lậu từ 1.500 bao đến dưới 3.000 bao;

…………………………..” [3] Xét về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo hoàn toàn nhận thức được thuốc lá là mặt hàng được Nhà nước độc quyền quản lý nhằm kiểm soát lượng thuốc lá trên thị trường và có chính sách để hạn chế việc sử dụng thuốc lá, bảo vệ sức khỏe cho người dân nhất là trong điều kiện hiện nay, chính quyền địa phương đang quyết liệt thực hiện các biện pháp để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng mua bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiệp, gây dư luận xấu trong xã hội. Để đảm bảo tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo bằng một hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi mà bị cáo đã gây ra nhẳm giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ - Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

- Về các tình tiết tăng nặng: Không có - Về các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) đó là: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm T; thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Do đó lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đưa ra tại phiên tòa là có căn cứ xem xét.

[5] Về hình phạt: với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần áp dụng một mức hình phạt tương xứng, đủ nghiêm để vừa đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Từ những phân tích trên, xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, HĐXX xét thấy: Cần tuyên phạt bị cáo một mức án tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi mà bị cáo đã gây ra nhằm để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời cũng răn đe, làm gương cho những ai có hành vi tương tự. Mặt khác cũng thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước ta.

Đối với trường hợp Nguyễn Bá T (Xịt) và Trần Văn K khai nhận đã có hành vi vận chuyển thuốc lá ngoại cho người đàn ông lạ mặt nhưng không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện GT không đủ chứng cứ để làm cơ sở xử lý.

[6] Về các biện pháp tư pháp:

Hội đồng xét xử thấy có căn cứ để áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Hội đồng xét xử thấy có căn cứ để xử lý như sau:

- 01 (một) thiết bị lưu trữ điện tử (đầu thu Camera) màu trắng, nhãn hiệu HIKVISION, Model: DS - 7104N1 - Q1/4P, Seri: C26443772, Made in China. Hiện đã trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị C nên HĐXX không xét.

Tịch thu tiêu hủy: 1.795 (một nghìn bảy trăm chín mươi lăm) bao thuốc lá ngoại gồm:

+ 1.689 (một nghìn sáu trăm tám mươi chín) bao thuốc lá điếu nhẫn hiệu HERO.

+ 20 (hai mươi) bao thuốc lá nhãn hiệu JET.

+ 86 (tám mươi sáu) bao thuốc lá điếu nhãn hiệu CANYON.

Đối với 3.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm 1.500 bao thuốc lá điếu hiệu HERO và 1.500 bao thuốc lá điếu hiệu JET) phát hiện tại hầm bê tông đất trống khu vực cặp bên nhà bị cáo. Trong quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện GT chưa xác định được đối tượng phạm tội nên đã tách hồ sơ ra và tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau. Do đó cần tiếp tục bảo quản để làm vật chứng khi xử lý vụ việc khác.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị C phạm tội “Tàng trữ hàng cấm” Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 191; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị C 03 (ba) tháng tù giam. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án nhưng được khấu trừ thời hạn tạm giữ trước đó từ ngày 22/5/2021 đến ngày 31/5/2021.

[2] Các biện pháp tư pháp:

Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

- 01 (một) thiết bị lưu trữ điện tử (đầu thu Camera) màu trắng, nhãn hiệu HIKVISION, Model: DS - 7104N1 - Q1/4P, Seri: C26443772, Made in China.

Hiện đã trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị C nên HĐXX không xét.

Tịch thu tiêu hủy:

1.795 (một nghìn bảy trăm chín mươi lăm) bao thuốc lá ngoại gồm:

+ 1.689 (một nghìn sáu trăm tám mươi chín) bao thuốc lá điếu nhẫn hiệu HERO.

+ 20 (hai mươi) bao thuốc lá nhãn hiệu JET.

+ 86 (tám mươi sáu) bao thuốc lá điếu nhãn hiệu CANYON.

Đối với 3.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm 1.500 bao thuốc lá điếu hiệu HERO và 1.500 bao thuốc lá điếu hiệu JET) phát hiện tại hầm bê tông đất trống khu vực cặp bên nhà bị cáo. Trong quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện GT chưa xác định được đối tượng phạm tội nên đã tách hồ sơ ra và tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau. Do đó tiếp tục bảo quản số bao thuốc lá này để làm vật chứng khi xử lý vụ án khác.

[3] Án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Thị C phải nộp án phí hình sự sơ thẩm số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng)

[4] Quyền kháng cáo: bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (23/11/2021).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

360
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 08/2021/HSST

Số hiệu:08/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về