Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 06/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 06/2023/HS-ST NGÀY 06/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 06 tháng 3 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2023/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:

Phạm Thị T - Sinh ngày 18 tháng 6 năm 1993 tại: huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: xóm 6, xã K, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn D và con bà Nguyễn Thị T; bị cáo có chồng là Vũ Văn C và có 02 con, con lớn sinh năm 2020, con nhỏ sinh năm 2021; tiền án, tiền sự, nhân thân: không.

Bị cáo đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 07/2023/LCĐKNCT- TA ngày 14/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện Yên Mô (có mặt).

- Người tham gia tố tụng khác:

Người chứng kiến:

- Anh Hoàng Văn C (vắng mặt)

- Anh Tạ Quang T (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 12/2022, trên đường đi làm về đến Quốc lộ 1A thuộc địa phận xóm 6, xã Mai Sơn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình thì Phạm Thị T đã gặp một người đàn ông (không xác định được tên, tuổi, địa chỉ) điều khiển xe ô tô loại Container (không xác định được biển kiểm soát) đang dừng ở ven đường. Thấy Phạm Thị T đi đến gần thì người đàn ông này nói“Em đi biên giới lấy được ít pháo về chị có lấy về chơi em để rẻ cho”. Thấy vậy T liền hỏi “Bán như nào, rẻ thì tôi lấy”. Người đàn ông trả lời “Em còn 03 hộp 36 quả và 02 hộp 49 quả, chị lấy cả em để cho 5.000.000 đồng”. Phạm Thị T đồng ý và nói “Vậy anh để cho em”. Người đàn ông này liền đi lên ca bin của xe ô tô lấy xuống 05 hộp pháo (gồm 03 hộp loại 36 quả và 02 hộp loại 49 quả) đưa cho T. Sau khi xem xong thì Phạm Thị T nhất trí mua, đồng thời lấy số tiền 5.000.000 đồng đưa cho người này. Sau khi mua được số pháo trên thì Phạm Thị T đã nhặt 01 vỏ bao bì xác rắn ở ven đường đem bọc 05 hộp pháo lại mang về nhà mình. Khi đem về nhà Phạm Thị T đã vứt chiếc vỏ bì xác rắn đi và cất giấu 05 hộp pháo tại vị trí khe hở kê máy giặt và tường nhà gian phòng để máy giặt của gia đình nhằm mục đích sử dụng đốt vào dịp Tết Quý Mão 2023. Quá trình cất giấu số pháo trên thì Phạm Thị T chưa sử dụng lần nào.

Ngày 13/01/2023, Công an huyện Yên Mô sau khi nhận được báo cáo của Công an xã Khánh Thượng về việc Phạm Thị T có biểu hiện nghi vấn đã tiến hành đến gia đình của Phạm Thị T ở xóm 6, Đồng Nhân, xã Khánh Thượng, huyện Yên Mô để xác minh. Tại đây Phạm Thị T đã thừa nhận hành vi cất giấu trái phép pháo hoa của mình. Tổ công tác Công an huyện Yên Mô đã phối hợp với Công an xã Khánh Thượng tiến hành thu giữ tại vị trí khe hở giữa máy giặt và tường nhà gian để máy giặt của gia đình Phạm Thị T 03 khối hình hộp chữ nhật có đặc điểm hình dạng giống nhau, kích thước mỗi hộp là (15x15x12,5)cm, hai đầu bịt kín bốn mặt còn lại bọc giấy in hoa nhiều màu sắc (màu chủ đạo là xanh dương) có in chữ nước ngoài; 01 khối hình hộp chữ nhật kích thước mỗi hộp là (17x17x10)cm, hai đầu bịt kín bốn mặt bên bọc giấy in hoa nhiều màu sắc (màu chủ đạo là xanh dương) có in chữ nước ngoài; 01 khối hình hộp chữ nhật kích thước mỗi hộp là (17,5x17,5x10)cm, hai đầu bịt kín bốn mặt bên bọc giấy in hoa nhiều màu sắc (màu chủ đạo là xanh dương) có in chữ nước ngoài do Phạm Thị T giao nộp.

Cơ quan điều tra đã tiến hành cân xác định khối lượng pháo nổ đã thu giữ của Phạm Thị T, cụ thể:

- 03 khối hình hộp chữ nhật có đặc điểm hình dạng giống nhau kích thước (15x15x12,5)cm hai đầu bịt kín bốn mặt còn lại bọc giấy in hoa nhiều màu sắc (màu chủ đạo là xanh dương) có in chữ nước ngoài. Mỗi khối hình hộp có khối lượng là 1,6kg; ký hiệu lần lượt là M1, M2, M3.

- 01 khối hình hộp chữ nhật kích thước (17x17x10)cm, hai đầu bịt kín bốn mặt bên bọc giấy in hoa nhiều màu sắc (màu chủ đạo là xanh dương) có in chữ nước ngoài có khối lượng là 1,8kg, ký hiệu M4.

- 01 khối hình hộp chữ nhật kích thước (17,5x17,5x10)cm, hai đầu bịt kín bốn mặt bên bọc giấy in hoa nhiều màu sắc (màu chủ đạo là xanh dương) có in chữ nước ngoài có khối lượng là 1,9kg, ký hiệu M5.

Tổng trọng lượng của các hộp ký hiệu M1 đến M5 là 8,394kg được niêm phong trong 01 thùng bìa cát tông kích thước (32x30x31)cm theo quy định để tiến hành trưng cầu giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 129/KLGĐ-KTHS-ChN ngày 17/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:

- 05 (năm) khối hình hộp chữ nhật bọc giấy ký hiệu từ M1 đến M5 gửi giám định đều là pháo, loại pháo nổ (còn được gọi là pháo hoa nổ).

- Khối lượng của hộp pháo nổ gửi giám định ký hiệu M1 là 1,583 kg, M2 là 1,589 kg, M3 là 1,565 kg, M4 là 1,782 kg và M5 là 1,875 kg .

Tổng khối lượng của 05 (năm) hộp pháo nổ ký hiệu từ M1 đến M5 gửi giám định là 8,394 kg (tám phẩy ba trăm chín mươi bốn ki lô gam) Hoàn lại đối tượng giám định gồm: 05 (năm) hộp pháo nổ ký hiệu từ M1 đến M5 còn lại sau giám định của hộp pháp nổ ký hiệu M1 là 1,322 kg; M2 là 1,417 kg; M3 là 1,393 kg, M4 là 1,565 kg, M5 là 1,716 kg. Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong theo quy định của pháp luật và hoàn trả cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô.

Tại bản Cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 13 tháng 02 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Phạm Thị T ra trước Tòa án nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình để xét xử về tội: “Tàng trữ hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình giữ nguyên quyết định truy tố, đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Phạm Thị T phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Thị T từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Phạm Thị T cho Uỷ ban nhân dân xã Khánh Thượng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình là nơi bị cáo thường trú, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Phạm Thị T.

- Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 05 (năm) hộp pháo nổ ký hiệu từ M1 đến M5 còn lại sau giám định của Phạm Thị T với khối lượng M1 là 1,322 kg; M2 là 1,417 kg; M3 là 1,393 kg, M4 là 1,565 kg, M5 là 1,716 kg được đựng trong thùng cát tông niêm phong theo quy định.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi bị truy tố như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô đã nêu. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo Phạm Thị T tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người chứng kiến, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định số 129/KLGĐ-KTHS-ChN ngày 17/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Ninh Bình cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 13/01/2023, tại gia đình Phạm Thị T ở xóm 6, Đồng Nhân, xã Khánh Thượng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, Phạm Thị T đã có hành vi tàng trữ trái phép 05 hộp pháo nổ (gồm 03 hộp loại 36 quả và 02 hộp loại 49 quả) có tổng khối lượng 8,394kg nhằm sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế, một khách thể quan trọng được Bộ luật Hình sự bảo vệ. Bị cáo là người trưởng thành có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ pháo nổ là hàng cấm nhưng vẫn cố ý mua và cất giấu 8,394kg pháo nổ tại nhà. Hành vi của bị cáo Phạm Thị T đã phạm vào tội “Tàng trữ hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự nên việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô đối với bị cáo theo bản Cáo trạng là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Điều 191. Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm “1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;

…” [3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Phạm Thị T không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi bị phát hiện hành vi phạm tội đã tự nguyện ra đầu thú nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo Phạm Thị T có nhân thân tốt.

[4] Về hình phạt: bị cáo Phạm Thị T tàng trữ trái phép 8,394kg pháo nổ tại nhà vì có suy nghĩ đơn giản, thấy rẻ mua về để chơi tết chứ không nhằm mục đích mua bán, thu lợi bất chính. Bản thân bị cáo có nơi cư trú ổn định, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng án treo, việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Với hình phạt lần này cũng đủ để bị cáo rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc cho bản thân và không bao giờ phạm sai lầm nữa.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Phạm Thị T.

[5] Về nguồn gốc pháo nổ: Phạm Thị T khai mua người đàn ông ven đường QL1A, kết quả điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người đã bán pháo cho T nên không đủ căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp: 05 (năm) hộp pháo nổ ký hiệu từ M1 đến M5 còn lại sau giám định của Phạm Thị T với khối lượng M1 là 1,322 kg; M2 là 1,417 kg; M3 là 1,393 kg, M4 là 1,565 kg, M5 là 1,716 kg được đựng trong thùng cát tông niêm phong theo quy định là vật thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[7] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thị T phạm tội: Tàng trữ hàng cấm.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Thị T 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 06/3/2023.

Giao bị cáo Phạm Thị T cho Uỷ ban nhân dân xã Khánh Thượng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình là nơi bị cáo thường trú, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

3. Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy: 05 (năm) hộp pháo nổ ký hiệu từ M1 đến M5 còn lại sau giám định của Phạm Thị T với khối lượng M1 là 1,322 kg; M2 là 1,417 kg; M3 là 1,393 kg, M4 là 1,565 kg, M5 là 1,716 kg được đựng trong thùng cát tông niêm phong theo quy định.

Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Mô ngày 14/02/2023.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Thị T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 06/2023/HS-ST

Số hiệu:06/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Mô - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về