Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 06/2018/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 06/2018/HS-ST NGÀY 06/02/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 06 tháng 02 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự thụ lý số: 02/2018/TLST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2018/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Bị cáo: KHUẤT LÊ H - Sinh ngày 26 tháng 8 năm 1981 tại tỉnh Hà Giang.

Nơi thường trú: Tổ 09, thị trấn B, huyện A, tỉnh Hà Giang; Chỗ ở hiện nay: Tổ 02, thị trấn B, huyện A, tỉnh Hà Giang; Nghề nghiệp: Lao động tự do;

Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Khuất Văn H – Sinh năm: 1955; Con bà: Lê Thị H – Sinh năm: 1954; Vợ: Hoàng Kim A – Sinh năm: 1988; Con: 03 con, Con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tốt.

Bị cáo H bị bắt ngày 15-01-2018; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Giang; Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Mai Hồng T – Sinh năm: 1975; Địa chỉ: Tổ 11, thị trấn B, huyện A, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt

- Chị Hoàng Kim Anh - Sinh năm: 1988; Địa chỉ: Tổ 09, thị trấn B, huyện A, tỉnh Hà Giang; Có mặt.

Người chứng kiến: Anh Hoàng Đình T; Địa chỉ: Thôn Đ, xã G, huyện A, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 23 giờ 45 phút ngày 15-01-2018, tại trụ sở đồn Công an khu công nghiệp V, xã G, huyện A, tỉnh Hà Giang tổ Công tác phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Hà Giang phối hợp với cán bộ phòng 3 Cục cảnh sát phòng chống tội phạm buôn lậu Bộ Công an trên đường làm nhiệm vụ phát hiện xe ô tô BKS 23A – 00843, người điều khiển xe là Khuất Lê H – Sinh ngày: 26-8-1981 chạy từ hướng Quốc lộ 2 vào khu Công nghiệp V có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện phía sau cốp xe có 02 hộp bìa cát tông bên trong hộp có 24 hộp hình vuông có chữ nước ngoài và 01 túi ni lông màu đen bên trong có 71 quả hình bóng đèn điện (nghi là pháo nổ). Tổ công tác yêu cầu Khuất Lê H cùng toàn bộ tang vật về đồn công an V lập biên bản phạm tội quả tang và tiến hành niêm phong toàn bộ tang vật.

Khuất Lê H khai nhận: Số tang vật mà Công an thu giữ là pháo. Khoảng giữa tháng 12-2017, Hiếu thuê xe ô tô BKS 23A-008.43; Nhãn hiệu: DAEWOO; Số loại GENTRA; Màu sơn ghi của anh Mai Hồng T - Sinh năm: 1975; Địa chỉ: Tổ 11, thị trấn B, huyện A, tỉnh Hà Giang với số tiền 10.000.000đ/tháng để sử dụng làm phương tiện chở Taxi trên địa bàn huyện A, tỉnh Hà Giang. Vào khoảng 11 giờ ngày 12-01-2018, có 01 người đàn ông không rõ họ tên tuổi, địa chỉ thuê H (lái xe Taxi) đi từ khu vực chợ huyện A đến Km27, thị trấn L, huyện A, tỉnh Hà Giang. Trên đường đi, qua nói chuyện người khách đó có nói và nhờ H tìm mua pháo về đốt đêm giao thừa năm 2018. H chưa biết nơi bán pháo ở đâu nên không trao đổi hứa hẹn gì thêm. Sau đó, H nảy sinh ý định tìm mua pháo về đốt.

Khoảng 21 giờ ngày 13-01-2018, H ra hội chợ huyện A chơi thì gặp một nhóm thanh niên đang nói chuyện với nhau về việc mua pháo về đốt. H hỏi nhóm thanh niên thì có một thanh niên hẹn H 03 giờ sáng ngày 14-01-2018 đón tại Cây xăng thị trấn B, huyện A, tỉnh Hà Giang để đưa H đi mua pháo. Như đã hẹn, H đi ô tô đến đón người thanh niên tại cây xăng và người đó giới thiệu tên là T, không nói địa chỉ ở đâu. T lên xe bảo H đi lên Km8 đường Hà Giang đi xã X để lấy pháo. Trên đường đi, H thấy T có gọi điện trao đổi với người bán pháo. Đến nơi thì thấy có hai thanh niên đang đứng chờ ở cạnh đường và vẫy tay ra hiệu cho H quay đầu xe hướng về thành phố Hà Giang. Khi xuống xe, hai thanh niên đó trao đổi và bán cho H 02 thùng pháo + 06 túi pháo cù với tổng số tiền 6.000.000đ (sáu triệu đồng). Sau đó, hai thanh niên này cùng bốc pháo vào cốp xe của H và H điều khiển xe ô tô cùng T đi về huyện A. Đến đoạn cây xăng thì T xuống xe còn H lái xe về nhà, số pháo đó vẫn để trong cốp xe.

Khoảng 22 giờ ngày 15-01-2018, có khách gọi xe đón ở cuối đường đôi Khu công nghiệp V, xã G, huyện A, tỉnh Hà Giang. Khi lái xe đến Khu công nghiệp V thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ. Qua cân tịnh trọng lượng tang vật thu giữ: 36kg pháo. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Giang đã tiến hành gửi mẫu trung cầu giám định.

Tại Kết luận giám định số: 56 ngày 18-01-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang kết luận: Mẫu vật ký hiệu A1, A2, A3 là pháo hoa, loại pháo này có chứa thuốc pháo, khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ và ánh sáng màu. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Về vật chứng:

Số pháo sau khi gửi mẫu giám định còn lại: 22 hộp pháo (có chữ A I R F0RCE. Hình hoa văn và chữ nước ngoài, màu vàng đen, kích thước 15 x 15 x12 cm) và 01 túi Ni long màu đen bên trong có 66 quả pháo hình bóng đèn điện, một đầu có gắn dây màu xanh, màu vàng xám.

Căn cứ Nghị định 70/2013 không chuyển theo hồ sơ vụ án. Hiện do Phòng PC81 Công an tỉnh Hà Giang quản lý theo quy định. (Lệnh nhập kho vật chứng ngày 23-01-2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Giang)

- 01 điện thoại di động OPPO màu đen, số IMEI1: 1867458037324375; số IMEI2: 867458037324367 (đã qua sử dụng).

- 01 giấy phép lái xe số 020108000384 cấp ngày 16-10-2013 mang tên Khuất Lê H.

- 01 Giấy chứng minh nhân dân số: 073116256 cấp ngày 12-12-2011 mang tên Khuất Lê H.

Theo như biên bản bàn giao giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC 46) Công an tỉnh Hà Giang và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Giang ngày 30-01-2018.

Trong vụ án cơ quan điều tra đã trả lại vật chứng không liên quan đến việc phạm tội cho các chủ sở hữu gồm:

- Trả lại cho anh Mai Hồng T 01 Xe ô tô BKS 23A – 008.43; Nhãn hiệu: DAEWOO; Số loại GENTRA; Màu sơn ghi của anh Mai Hồng T – Sinh năm: 1975; Địa chỉ: Tổ 11, thị trấn B, huyện A, tỉnh Hà Giang.

- Trả lại cho Hoàng Kim A (vợ của bị cáo H) 01 điện thoại iPhone đã qua sử dụng màu trắng; số IMEI 358814050193442.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số: 06/QĐ-VKS ngày 30 tháng 01 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang quyết định truy tố đối với bị cáo Khuất Lê H về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A thực hành quyền công tố tại phiên tòa ngày hôm nay, có quan điểm thay đổi quyết định truy tố đối với bị cáo H từ tội “Vận chuyển hàng cấm” sang tội “Tàng trữ hàng cấm” theo Điều 298 BLTTHS. Đưa ra chứng cứ đánh giá mức độ hành vi phạm tội và thái độ thành khẩn khai báo của bị cáo; lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; lời khai người làm chứng. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A đề nghị với HĐXX tuyên bố:

Về tội danh: Tuyên bị cáo Khuất Lê H phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Khuất Lê H từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt ngày 15-01-2018.

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy hàng cấm lưu hành:

Giao cho Công an tỉnh Hà Giang xử lý vật chứng theo quy định của điều 6 Nghị định số 26/2012 ngày 05- 4 -2012 của Chính phủ “ Quy định trình tự, thủ tục, thẩm quyền và kinh phí phục vụ việc tiếp nhận, thu gom, phân loại, bảo quản, thanh lý, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ”

- 22 hộp pháo (có chữ A I R F0RCE. Hình hoa văn và chữ nước ngoài, màu Vàng đen, kích thước 15 x 15 x12 cm) và 01 túi Ni long màu đen bên trong có 66 quả pháo hình bóng đèn điện, một đầu có gắn dây màu xanh, màu vàng xám.

Trả lại cho bị cáo Khuất Lê H: 01 điện thoại di động OPPO màu đen, số IMEI1: 1867458037324375; số IMEI2: 867458037324367 (đã qua sử dụng).

- 01 giấy phép lái xe số 020108000384 cấp ngày 16-10-2013 mang tên Khuất Lê H.

- 01 Giấy chứng minh nhân dân số: 073116256 cấp ngày 12-12-2011 mang tên Khuất Lê H.

 Theo như biên bản bàn giao giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC 46) Công an tỉnh Hà Giang và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Giang ngày 30-01-2018.

Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản gồm:

Trả lại anh Mai Hồng T xe ô tô BKS 23A – 008.43; Nhãn hiệu: DAEWOO; Số loại GENTRA; Màu sơn: Ghi của anh Mai Hồng T – Sinh năm: 1975; Địa chỉ: Tổ 11, thị trấn B, huyện A, tỉnh Hà Giang, chủ sở hữu không có đề nghị bổ sung nên không xem xét.

- Trả lại cho Hoàng Kim A (vợ của bị cáo H) 01 điện thoại iPhone đã qua sử dụng màu trắng; số IMEI 358814050193442, chủ sở hữu không có đề nghị bổ sung nên không xem xét.

Do bị cáo không có thu nhập ổn định. Nên không áp dụng hình phạt tiền bổ sung.

Về phần dân sự không đề nghị không xem xét.

Về án phí, quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Khuất Lê H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như sau: Khoảng 3 giờ 40 phút ngày 14-01-2018 bị cáo H đã mua số pháo hoa về sử dụng để trong cốp xe ô tô, đến 23 giờ 45 phút ngày 15-01-2018 bị cáo Khuất Lê H trên đường đi đón khách đi tắc xi đã bị lực lượng chức năng khám xét bắt quả tang tại Khu công nghiệp V, xã G, huyện A, tỉnh Hà Giang, tổng khối lượng pháo các loại là 36kg để trong cốp xe ô tô. Bị cáo Khuất Lê H nhận thức được hành vi mua pháo về sử dụng là vi phạm pháp luật, đề nghị với HĐXX giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về hòa nhập với gia đình và cộng đồng.

Tại phiên tòa hôm nay, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Mai Hồng T vắng mặt chủ tọa phiên tòa đã công bố lời khai của anh Mai Hồng T đã nhận lại tài sản của mình cho bị cáo H thuê để kinh doanh dịch vụ taxi, gồm: 01 ô tô con mang BKS 23A – 008.43 cùng chìa khóa xe ô tô và toàn bộ giấy tờ liên quan. Anh T không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì về phần trách nhiệm dân sự. Ngoài ra, không có ý kiến gì bổ sung.

Chị Hoàng Kim A (vợ của bị cáo H) đã nhận lại 01 điện thoại iPhone đã qua sử dụng màu trắng; số IMEI 358814050193442. không có đề nghị bổ sung

Người chứng kiến đã khai tại hồ sơ hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo Khuất Lê H khai nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình giải quyết vụ án HĐXX nhận thấy Cơ quan điều tra; Điều tra viên; Viện kiểm sát; Kiểm sát viên đã thực hiện hành vi, quyết định tố tụng về khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, ra quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn; thu thập  chứng cứ tài liệu, vật chứng đã khách quan, phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Bị cáo Khuất Lê H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau: Khoảng 3 giờ 40 phút ngày 14-01-2018 bị cáo H đã mua số pháo hoa về sử dụng để trong cốp xe ô tô, đến 23 giờ 45 phút ngày 15-01-2018 bị cáo Khuất Lê H trên đường đi đón khách đi tắc xi đã bị lực lượng chức năng khám xét bắt quả tang tại Khu công nghiệp V, xã G, huyện A, tỉnh Hà Giang, tổng khối lượng pháo các loại là 36kg để trong cốp xe ô tô. Lời khai của bị cáo H phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của người có nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hành vi của bị cáo Khuất Lê H đã vi phạm pháp luật quy định tại điểm g khoản 1 Điều 6 Luật số 03/2016/QH14 ngày 22-11-2016 sửa đổi bổ sung Điều 6 và phụ lục 4 về danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật đầu tư năm 2014 quy định ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh đó là “Kinh doanh pháo nổ”; Tiểu mục 2.3 mục 2 phần III Thông tư liên tich số 06/2008/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 25-12-2008 về hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép pháo nổ và thuốc pháo. Xét thấy bị cáo H là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo H thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Khuất Lê H phạm tội Tàng trữ hàng cấm (pháo) theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự. Chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát về thay đổi về tội danh truy tố đối với bị cáo H là đúng người, đúng tội.

Tại điểm c khoản 1, khoản 4 Điều 191 về “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm” Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234,239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000đ đến 300.000.000đ hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) ...

c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;

Khoản 4: Có thể bị phạt tiền từ 10.000.000đ đến 50.000.000đ .....”

Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo H là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến an toàn, trật tự xã hội. Cần lên mức án nghiêm minh theo quy định, để bị cáo H rèn luyện tu dưỡng bản thân, đồng thời có tác dụng phòng ngừa chung loại tội phạm này, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự là phù hợp với quan điểm của Kiểm sát viên đưa ra tại phiên tòa.

Nhân thân bị cáo H chưa có tiền án, tiền sự, thật thà khai báo, biết ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo H thuê xe của Xe ô tô BKS 23A – 008.43; Nhãn hiệu: DAEWOO; Số loại GENTRA; Màu sơn ghi của anh Mai Hồng T sau khi bị thu giữ chủ sở hữu nhận lại tài sản không có yêu cầu bị cáo H bồi thường trách nhiệm dân sự. Nên không xem xét giải quyết.

Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy hàng cấm lưu hành:

Giao cho Công an tỉnh Hà Giang xử lý vật chứng theo quy định của điều 6 Nghị định số 26/2012 ngày 05- 4 -2012 của Chính phủ “ Quy định trình tự, thủ tục, thẩm quyền và kinh phí phục vụ việc tiếp nhận, thu gom, phân loại, bảo quản, thanh lý, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ”.

- 22 hộp pháo (có chữ A I R F0RCE. Hình hoa văn và chữ nước ngoài, màu Vàng đen, kích thước 15 x 15 x12 cm) và 01 túi Ni long màu đen bên trong có 66 quả pháo hình bóng đèn điện, một đầu có gắn dây màu xanh, màu vàng xám.

Trả lại cho bị cáo Khuất Lê H:

01 điện thoại di động OPPO màu đen, số IMEI1: 867458037324375; số IMEI2: 867458037324367 (đã qua sử dụng).

- 01 giấy phép lái xe số 020108000384 cấp ngày 16-10-2013 mang tên Khuất Lê H.

- 01 Giấy chứng minh nhân dân số: 073116256 cấp ngày 12-12-2011 mang tên Khuất Lê H. 

Theo như biên bản bàn giao giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC 46) Công an tỉnh Hà Giang và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Giang ngày 30-01-2018.

Theo điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết đã trả lại gồm:

- Xe ô tô BKS 23A – 008.43; Nhãn hiệu: DAEWOO; Số loại GENTRA; Màu sơn: Ghi của anh Mai Hồng T – Sinh năm: 1975; Địa chỉ: Tổ 11, thị trấn B, huyện A, tỉnh Hà Giang. Đã trả lại cho chủ sở hữu không có đề nghị bổ sung nên không xem xét.

- Trả lại cho Hoàng Kim A (vợ của bị cáo H) 01 điện thoại iPhone đã qua sử dụng màu trắng; số IMEI 358814050193442, không có đề nghị bổ sung nên không xem xét.

Về án phí: Buộc bị cáo Khuất Lê H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, khoản 1 Điều 23 theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của UBTVQH “quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.

Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Trong vụ án, có người tên là T và 02 người bán pháo cho bị cáo H do không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của những người đó nên Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hà Giang tiếp tục điều tra xác minh làm rõ để xem xét xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Khuất Lê H phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

Hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Khuất Lê H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo H bị bắt, ngày 15-01-2018.

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy hàng cấm lưu hành:

Giao cho Công an tỉnh Hà Giang xử lý vật chứng theo quy định của điều 6 Nghị định số 26/2012 ngày 05- 4 -2012 của Chính phủ “ Quy định trình tự, thủ tục, thẩm quyền và kinh phí phục vụ việc tiếp nhận, thu gom, phân loại, bảo quản, thanh lý, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ”.

- 22 hộp pháo (có chữ A I R F0RCE. Hình hoa văn và chữ nước ngoài, màu Vàng đen, kích thước 15 x 15 x12 cm) và 01 túi Ni long màu đen bên trong có 66 quả pháo hình bóng đèn điện, một đầu có gắn dây màu xanh, màu vàng xám. ( Theo Lệnh nhập kho vật chứng ngày 23-01-2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Giang)

Trả lại cho bị cáo Khuất Lê H:

- 01 điện thoại di động OPPO màu đen, số IMEI1: 867458037324375; số IMEI2: 867458037324367 (đã qua sử dụng).

- 01 giấy phép lái xe số 020108000384 cấp ngày 16-10-2013 mang tên Khuất Lê H.

- 01 Giấy chứng minh nhân dân số: 073116256 cấp ngày 12-12-2011 mang tên Khuất Lê H.

(Theo như biên bản bàn giao vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC 46) Công an tỉnh Hà Giang và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Giang ngày 30-01-2018.)

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, khoản 1 Điều 23 theo Nghị quyết số 326-2016-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 “quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án” . Buộc bị cáo Khuất Lê H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 06-02-2018).

Báo cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 06/2018/HS-ST

Số hiệu:06/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Văn - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:06/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về