Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 03/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 03/2023/HS-ST NGÀY 18/01/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 18 tháng 01 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự thụ lý số: 04/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2023 đối với:

*Bị cáo: Bùi Văn H, sinh ngày 25 tháng 6 năm 1986 tại: thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Nơi cư trú: thôn T, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn N và bà Nguyễn Thị T; Vợ là Hoàng Thị T và 03 con; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: năm 2006, bị Tòa án nhân dân Tối cao xử phúc thẩm và xử phạt 09 năm tù về tội “Hiếp dâm trẻ em”. Đã chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 30/8/2010. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 28/12/2022, đến ngày 17/01/2023 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh và tạm hoãn xuất cảnh, hiện tại ngoại tại nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1968. Địa chỉ: thôn T, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu mua pháo để sử dụng vào dịp Tết Nguyên đán năm 2023, khoảng 07 giờ 30 phút ngày 28/12/2022, Bùi Văn H đã gọi điện cho một người đàn ông (không xác định được họ tên, lai lịch, địa chỉ) hỏi mua 07 hộp pháo giàn loại 36 lỗ/hộp và 01 bánh pháo. Người đàn ông báo giá 400.000 đồng/01 hộp pháo giàn và 1.200.000 đồng/01 bánh pháo, H đồng ý và hẹn nhận hàng vào buổi tối tại đoạn đường cách nhà H khoảng 300 mét thuộc thôn T, xã T, huyện H. Đến khoảng 19 giờ 30 cùng ngày, H một mình đi bộ đến điểm hẹn và gặp một người đàn ông. Khi xác định là người bán pháo, H trả 4.000.000 đồng thì người này chỉ địa điểm cất giấu pháo ở gần đó cho H rồi bỏ đi. Khi H đang kiểm tra pháo để chở về nhà thì bị Tổ công tác công an tỉnh Quảng Ninh phối hợp cùng Công an huyện H phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số pháo nêu trên và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO gắn sim số 0398.X.986.

Tại bản kết luận giám định số 23/KL-KTHS ngày 29/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hải Phòng kết luận: 07 khối hộp hình chữ nhật, một khối có kích thước (21x17,5x19)cm, bên ngoài là lớp giấy có in chữ nước ngoài và nhiều màu sắc, bên trong khối được đúc liền, mỗi khối có 42 ống, trong đó có 36 ống to và 06 ống nhỏ của mẫu M1 gửi giám định là pháo hoa nổ, tổng khối lượng 18,24kg. Các vật hình trụ tròn, vỏ bằng giấy màu đỏ, một đầu được bịt kín, một đầu có gắn một đoạn dây, được liên kết với nhau thành 01 tràng và cuộn lại thành một khối, bên ngoài có in chữ nước ngoài và nhiều màu sắc của mẫu M2 gửi giám định là pháo nổ, tổng khối lượng là 6,22 kg. Tổng khối lượng của hai loại là 24,46kg. Tất cả số pháo trên đều có nguồn gốc do Trung Quốc sản xuất. (Bút lục số 38 ) Các vật chứng gồm: số pháo hoàn lại sau giám định đã tịch thu tiêu hủy theo quy định; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO gắn sim số 0398.X.986 chuyển Chi cục Thi hành án dân sự bảo quản theo quy định.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bùi Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. (Bút lục số 70,71). Nói lời sau cùng, bị cáo rất ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.

Người chứng kiến là ông Nguyễn Văn A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên quá trình điều tra đã có lời khai thể hiện: khoảng 20 giờ 15 phút, ngày 18/12/2022, ông chứng kiến cơ quan Công an tiến hành bắt giữ Bùi Văn H cùng tang vật là 07 hộp pháo giàn loại 36 lỗ và 01 bánh pháo có tổng trọng lượng là 24kg. Bùi Văn H khai nhận mua số pháo trên của một người đàn ông không quen biết với giá 4.000.000đ để về sử dụng trong dịp tết.

Với nội dung trên, tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ- VKSHH ngày 13/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo Bùi Văn H về tội “Tàng trữ hàng cấm”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; khoản 1,2,5 Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn H từ 18 tháng đến 24 tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 36 tháng đến 48 tháng.

Về xử lý vật chứng: áp dụng khoản 1, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại bị cáo Bùi Văn H 01 điện thoại di động nhãn hiệu nhãn hiệu OPPO gắn sim số 0398.X.986; Về án phí hình sự sơ thẩm: buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi của người phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo Bùi Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, Bản ảnh vật chứng, Kết luận giám định số 23/KL-KTHS (CN) ngày 29/12/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà. Bị cáo khẳng định, những lời khai tại cơ quan điều tra là tự nguyện, đúng sự thật, không bị ép cung, mớm cung hoặc nhục hình. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 28/12/2022, tại khu vực thôn T, xã T, huyện H, Bùi Văn H mua của 01 đối tượng không quen biết 07 hộp pháo giàn 36 lỗ và 01 bánh pháo, tổng khối lượng của hai loại pháo là 24,46kg với giá 4.000.000đ để sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh hàng cấm (pháo). Bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ pháo nổ bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vẫn cố tình thực hiện, đã gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội.

Hành vi tàng trữ pháo của Bùi Văn H đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự như Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn của Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Xét nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Mặc dù bị cáo có nhân thân nhưng sau khi chấp hành xong bản án trở về địa phương đã tích cực cải tạo bản thân.

Tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; quá trình sinh sống tại địa phương sau khi chấp hành xong bản án, từ năm 2010 đến nay luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tại nơi cư trú. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, hiện phải nuôi mẹ già sức khỏe yếu và 03 con nhỏ, đã được chính quyền địa phương xác nhận nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt đối với bị cáo: Thấy rằng, bị cáo Bùi Văn H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giám sát, giáo dục; có khả năng tự cải tạo, nên việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, căn cứ vào Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử thấy rằng: không cần thiết phải cách ly bị cáo Bùi Văn H ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt.

[4] Về hình phạt bổ sung: xét thấy bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO gắn sim số 0398.X.986, Bùi Văn H không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả cho bị cáo.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Về các vấn đề khác: Đối với người đàn ông bán pháo cho Bùi Văn H không xác định được lai lịch địa chỉ nên không đề cập xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 191; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1,2,5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Bùi Văn H phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn H 18 (mười tám) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 18/01/2023).

Giao bị cáo Bùi Văn H cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo Bùi Văn H có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo Bùi Văn H cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Hủy Quyết định bảo lĩnh số 01/2023/QĐBL-TA và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh số 01 đều cùng ngày 17/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện H đối với bị cáo Bùi Văn H.

2. Về xử lý vật chứng: áp dụng khoản 1, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: trả lại bị cáo Bùi Văn H 01 điện thoại di động nhãn hiệu nhãn hiệu OPPO gắn sim số 0398.X.986 (Vật chứng nêu trên tình trạng như tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 13/CCTHADS ngày 16 tháng 01 năm 2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H và Chi cục thi hành án dân sự huyện H).

3. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: bị cáo Bùi Văn H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: căn cứ khoản 1 Điều 331 và khoản 1, 3 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: bị cáo có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 03/2023/HS-ST

Số hiệu:03/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hà - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về