Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 03/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH MIỆN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 21/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 21/02/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2022/TLST-HS ngày 26/01/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2022/QĐXXST-HS ngày 09/02/2022, đối với bị cáo:

Đào Văn H, sinh năm 1989 tại Hưng Yên; nơi ĐKTT: Thôn Đ, xã H, huyện Â, tỉnh Hưng Yên; nơi ở: Thôn Đ, xã T, huyện Y, tỉnh Hưng Yên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Văn Ng và bà Nguyễn Thị L; có vợ và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ 06 ngày (từ ngày 30/12/2021 đến ngày 04/01/2022), đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

1) NLC1, 2) NLC2, 3) NLC3.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do có nhu cầu sử dụng pháo nổ vào dịp Tết Nguyên Đán, Đào Văn H đã sử dụng điện thoại Iphone 5s của mình, tìm kiếm các trang mạng bán pháo nổ (không nhớ trang mạng nào). Sau khi tìm được thông tin người bán pháo nổ có số điện thoại là 0586.540.961, H sử dụng điện thoại của mình chứa sim số 0364.187.577 để gọi giao dịch việc mua bán pháo nổ và hẹn sáng này 30/12/2021 gặp nhau tại cầu thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương. Khoảng 08 giờ ngày 30/12/2021, H thuê taxi BKS 89A-239.xx của NLC2, sinh năm 1987, ở thôn C, xã T, huyện Y, tỉnh Hưng Yên đi từ nhà H đến khu vực thôn H, xã T, huyện T. Đến nơi, H gọi điện cho người bán pháo nổ và được hẹn chờ ở khu vực hồ câu H. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch đã sử dụng số điện thoại 0586.540.961 gọi cho H, bảo ra khu vực bãi cát gần hồ câu để giao dịch. H xuống xe taxi, đi bộ đến gặp một người đàn ông đi xe mô tô SH màu trắng (không rõ biển kiểm soát), người này bảo H ra bãi cỏ gần đó lấy pháo và thu của H số tiền 2.800.000 đồng. H đưa tiền rồi ra bãi cỏ gần đó thấy có một túi xách nhựa màu đen, mở ra kiểm tra thấy bên trong có pháo nổ loại pháo trứng, pháo giàn và pháo cối thì cầm lấy và đi về phía xe taxi. H bảo NLC2 mở cốp sau xe taxi, tự cất túi xách chứa pháo vừa mua được vào cốp rồi lên ghế sau taxi ngồi. Khi taxi vừa di chuyển đi được một đoạn thì bị lực lượng Công an huyện Thanh Miện yêu cầu kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Trong túi chứa: 02 vật hình hộp vỏ ngoài bọc bằng giấy đỏ, vàng, kích thước (15x15x15)cm, tại hai cạnh của mỗi vật đều gắn dây màu xanh dài 03cm, bên trong mỗi hộp đều có 36 vật hình trụ xếp gắn sát nhau; 34 vật hình trụ có kích thước (9x3)cm, được cuốn giấy màu đỏ bên ngoài, mỗi vật đều gắn dây ngòi màu bạc ở một đầu dài khoảng 2,5cm; 10 vật hình trụ kích thước (11 x 3,5) cm, được cuốn giấy màu đỏ bên ngoài, mỗi vật đều gắn dây màu bạc ở một đầu dài khoảng 2,5cm; 84 vật hình cầu, một đầu có gắn phần hình trụ, phần hình cầu đường kính 04cm, phần hình trụ có đường kính 02 cm, dài 03 cm và được bọc giấy màu vàng bên ngoài, tại phần hình trụ có gắn dây ngòi dài khoảng 25cm. Khám xét khẩn cấp tại chỗ ở của Đào Văn H thu giữ: 01 khối hộp, vỏ bọc giấy màu, bên trong khối hộp gồm 49 vật hình trụ, vỏ giấy được liên kết với nhau, trọng lượng 1,6kg. H khai nhận đây là pháo nổ cất giấu để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 9525/C09-P2 ngày 31/12/2021, Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: 84 vật hình bóng đèn điện tròn, vỏ bọc giấy, một đầu mỗi vật có gắn 01 đoạn dây màu xanh gửi đến giám định đều là pháo nổ (pháo hoa nổ), có khối tượng 03 kg; 44 vật hình trụ, vỏ bằng giấy màu, đầu mỗi vật có gắn 01 đoạn dây màu trắng gửi giám định đều là pháo nổ, có khối tượng là 2,8kg; 02 khối hộp, vỏ bọc giấy màu, bên trong mỗi khối hộp gồm 36 vật hình trụ, vỏ giấy được liên kết với nhau gửi giám định đều là pháo nổ (pháo hoa nổ), có khối lượng là 02 kg; 01 khối hộp, vỏ bọc giấy màu, bên trong khối hộp gồm 49 vật hình trụ, vỏ giấy được liên kết với nhau gửi đến giám định là pháo nổ (pháo hoa nổ) có khối lượng là 1,6kg. Tổng khối lượng pháo là 9,4kg. Trả lại mẫu vật sau khi trích 0,4kg pháo nổ. Số pháo nổ hoàn lại sau giám định đã được Cơ quan điều tra tiêu hủy theo đúng quy định của pháp luật.

Tại bản Cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 26/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương truy tố Đào Văn H ra trước Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện để xét xử về tội Tàng trữ hàng cấm, theo điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã bị truy tố; tỏ thái độ ăn năn, hối hận, xin giảm nhẹ hình phạt và được cải tạo tại địa phương.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đào Văn H phạm tội Tàng trữ hàng cấm; về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo từ 07 tháng đến 10 tháng tù tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 14 tháng đến 20 tháng, tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Y, tỉnh Hưng Yên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu, phát mại sung quỹ Nhà nước chiếc điện thoại Iphone 5s màu trắng và tịch thu tiêu hủy 01 SIM số 0364.187.577 và một túi xách nhựa màu đen đã thu giữ của bị cáo; về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật phí và lệ phí 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Miện, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định bị cáo có tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 09 giờ 40 phút ngày 30/12/2021, tại đường gần hồ câu H, thuộc thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương, Đào Văn H có hành vi tàng trữ trái phép 9,4kg pháo nổ (pháo hoa nổ), mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Miện phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ pháo nổ là trái pháp luật nhưng vì thỏa mãn sở thích cá nhân đã có hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của nhà nước, làm ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội Tàng trữ hàng cấm, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện thực hành quyền công tố đã luận tội đối với bị cáo là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy có thể cho bị cáo cải tạo tại địa phương tạo Điều kiện cho bị cáo sửa chữa sai lầm và cũng có tác dụng giáo dục thành công dân tốt, đồng thời bảo đảm mục đích đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Tổng khối lượng pháo bị cáo tàng trữ là 9,4kg, sau khi trích 0,4kg làm mẫu giám định, Tổ chức Giám định hoàn lại sau giám định đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra tiêu hủy theo đúng quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử không phải xử lý. Đối với các công cụ, phương tiện phạm: 01 chiếc điện thoại Iphone 5s màu trắng cần tịch thu, phát mại, sung quỹ nhà nước; 01 SIM số 0364.187.577 và 01 túi xách nhựa màu đen không còn giá trị, cần tịch thu và tiêu hủy. [6] Quá trình điều tra, cơ quan điều tra xác định NLC2 là lái xe taxi chở H nhưng không biết H mua, tàng trữ trái phép hàng cấm nên không xử lý đối với NLC2 và đã trả lại xe ô tô cho NLC2 là có căn cứ. Đối với người bán pháo nổ cho Đào Văn H, cơ quan điều tra đã ra Lệnh thu giữ thư tín, điện tín số 01 ngày 10/01/2022 để thu giữ thông tin chủ thuê bao số điện thoại 0586.540.961, xác định chủ thuê bao là anh Nguyễn Văn Đông, sinh năm 1990, trú tại thôn Lễ Nghĩa, xã Liên Hoa, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Quá trình điều tra xác định anh Đông hiện không có mặt tại địa phương, mặt khác bị can H không rõ nhân thân, đặc điểm nhận dạng của người bán pháo nổ nên không có căn cứ xác định người bán pháo nổ cho H là ai, ở đâu. Do vậy Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ người bán pháo nổ cho H để xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo Đào Văn H bị kết án, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 191, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Đào Văn H phạm tội Tàng trữ hàng cấm.

Xử phạt bị cáo Đào Văn H 08 (tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 (mười sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Đào Văn H cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Y, tỉnh Hưng Yên giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Đào Văn H từ ngày 21/02/2022.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu, phát mại sung quỹ Nhà nước chiếc điện thoại Iphone 5S màu trắng; tịch thu tiêu hủy 01 SIM số 0364.187.577 và túi xách nhựa màu đen kích thước (32x42x14)cm (toàn bộ vật chứng có đặc điểm ghi trong Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Miện và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Miện).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Đào Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 21/02/2022.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Miện - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về