Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 01/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 01/2023/HS-ST NGÀY 10/01/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 10 tháng 01 năm 2023, tại hội trường trụ sở Ủy ban nhân dân xã H, huyện Q, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 168/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 192/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Hồ Văn H (tên gọi khác: không); sinh năm: 1994 tại tỉnh N; nơi cư trú: xóm 11, xã Qu Th, huyện Q, tỉnh N; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hồ Văn Nh (chết) và bà: Nguyễn Thị L; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; tạm giữ: từ ngày 27/10/2022 đến ngày 05/11/2022 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Hồ Văn L, sinh năm 1977. Nơi cư trú: xóm 12, xã Qu Th, huyện Q, tỉnh N. Vắng mặt.

Người chứng kiến: Anh Bùi Nhật K, sinh năm 1983. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16h00 phút, ngày 27/10/2022, tài khoản messenger “K” nhắn tin đến tài khoản messenger “H” của Hồ Văn H hỏi “có mua pháo không”, H trả lời “Có”. “K” trả lời nếu mua 05 (cục) thì được ship và 19h lấy. H đồng ý đặt 05 (năm) bánh pháo loại 36 quả. “K” trả lời “mua 05 cục tặng thêm 05 cục, giá mỗi cục 500.000 đồng”. H đồng ý, “K” cho H số điện thoại 033964xxxx và bảo xóa hết Facebook và đoạn tin nhắn messenger. Sau đó, H sử dụng số điện thoại 098941xxxx để liên lạc đến số điện thoại 033964xxxx. Đến khoản 19h20 phút cùng ngày, H điều khiển xe máy biển kiểm soát 37L1- xxxxx đi đến đường liên thôn thuộc xóm 12, xã Quỳnh Thạch, huyện Q gặp người bán pháo, người bán pháo đưa cho H 01 (một) thùng giấy. H kiểm tra bên trong thấy có 10 (mười) bánh pháo loại 36 quả. H đưa cho người bán pháo số tiền 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng). H bê thùng giấy đựng pháo lên xe máy thì bị tổ công tác Công an tỉnh N bắt quả tang, thu giữ 01 (một) thùng cát tông màu vàng bên trong có 10 (mười) bánh pháo, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart và 01 (một) xe máy mang biển kiểm soát 37L1-xxxxx.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng 10 (mười) khối hình hộp chữ nhật giống nhau, kích thước (14x14x11)cm được bọc bằng giấy nhiều màu sắc, in hìng chữ nước ngoài, trên giấy có dòng chữ “C0834”, có tổng khối lượng 13,9 kg (mười ba phẩy chín ki lô gam). Quyết định trưng cầu giám định đối với 01 (một) khối hình hộp chữ nhật có khối lượng 1,4 kg (một phẩy tư ki lô gam). Sau khi lấy mẫu vật gửi giám định, số còn lại được niêm phong, bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Q.

Tại Kết luận giám định số 293/KL-KTHS(Đ2-CN) ngày 01/11/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: “Mẫu vật gửi tới giám định là pháo, là pháo nổ”.

Bản cáo trạng số 03/CT-VKS-QL ngày 09/12/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố Hồ Văn H về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Văn Hải từ 12- 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24-30 tháng.

Hình phạt bổ sung: không áp dụng.

Vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01 (một) thùng cát-tông được niêm phong bên trong có 09 (chín) khối hình hộp chữ nhật. Tịch thu, sung ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart màu xanh đã qua sử dụng của bị cáo.

Án phí: buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Văn H khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, không tranh luận gì về tội danh. Lời nói sau cùng: rất hối hận, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo có cơ hội cải tạo ngoài xã hội, làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Văn H khai nhận: Để có pháo sử dụng vào dịp tết, ngày 27/10/2022 bị cáo mua 10 (mười) bánh pháo với giá 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng) để lên xe đưa về nhà, thì bị tổ công tác Công an tỉnh N bắt quả tang tại đường liên thôn thuộc xóm 12, xã Quỳnh Thạch, huyện Q. Lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Bị cáo không được nhà nước cho phép, nhận thức được pháo là loại hàng hóa bị cấm, hành vi mua 13,9kg (mười ba phẩy chín kilogam) pháo về để sử dụng là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý hàng hóa kinh doanh có điều kiện của Nhà nước, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự. Phạm tội với lỗi cố ý. Như vậy, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Vụ án có tính chất ít nghiêm trọng. Mặc dù, pháp luật nghiêm cấm, các cơ quan chức năng ra sức tuyên truyền nhằm ngăn chặn tội phạm về pháo nổ nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, việc truy tố và xét xử bị cáo là cần thiết và cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mới có đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, cũng cần xem xét bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, ngoài lần phạm tội này, thì từ trước tới nay luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú. Bị cáo có khả năng tự cải tạo, việc được ở ngoài xã hội không gây nguy hiểm hay ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, không cần thiết phải cách ly mà giao cho chính quyền địa phương cũng đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[4] Hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật Hình sự “người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng...”. Bị cáo làm nghề lái xe, thu nhập không ổn định, nên không áp dụng hình phạt tiền bổ sung.

[5] Biện pháp tư pháp: Pháo thu giữ của bị cáo là loại hàng hóa Nhà nước cấm kinh doanh nên tịch thu, tiêu hủy. Điện thoại bị cáo sử dụng làm phương tiện liên lạc phạm tội nên tịch thu, sung ngân sách nhà nước. Xe máy Yamaha biển kiểm soát 37L2-xxxxx của anh Hồ Văn L, anh L không biết bị cáo mượn xe sử dụng vào việc phạm tội nên cơ quan điều tra đã trả lại cho anh L, là đúng quy định pháp luật.

[6] Cơ quan điều tra tiến hành xác minh người phụ nữ tên V, nhưng không xác định được, nên không có căn cứ để xử lý. Tiến hành xác minh số điện thoại 033964xxxx tại cửa hàng Viettel, được biết số điện thoại được đăng ký thông tin bởi anh Trần Văn C, sinh năm 1978, trú tại thôn 5, xã S H, huyện Q. Anh C khai anh mất điện thoại và mất sim nên không còn sử dụng số thuê bao 033964xxxx, anh không quen biết người nào tên “V”. Kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ hành vi của người bán pháo.

[7] Về án phí hình sự: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Văn H 15 (mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 (ba mươi) tháng, về tội “Tàng trữ hàng cấm”. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Hồ Văn H cho Ủy ban nhân dân xã Qu Th, huyện Q, tỉnh N để giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp cùng Ủy ban nhân dân xã và người được phân công trong việc giám sát, giáo dục người đó, thông báo kết quả chấp hành án của bị cáo với Ủy ban nhân dân xã khi có yêu cầu.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

2. Biện pháp tư pháp: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01 (một) thùng cát tông được niêm phong bên trong có 09 (chín) khối hình hộp chữ nhật. Tịch thu, sung ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart màu xanh, số seri 012345xxxx:

F, đã qua sử dụng của bị cáo Hồ Văn H. Tình trạng theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/12/2022 giữa Công an huyện Q và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q.

3. Án phí: áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 buộc bị cáo Hồ Văn H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh N trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 01/2023/HS-ST

Số hiệu:01/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về