Bản án về tội tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy số 183/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 183/2023/HS-ST NGÀY 31/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ DỤNG CỤ DÙNG VÀO VIỆC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 187/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 205/2023/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2023 đối với:

- Bị cáo:

Họ và tên: Trần Nhật V, sinh ngày: 08/3/1998, tại: Quảng Ngãi; Nơi ĐKHKTT: thôn TĐ, xã BT, huyện BS, tỉnh Quảng Ngãi; Chỗ ở: Số 8/1 đường ND, Phường I, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: Buôn bán; Học vấn: 12/12; Giới tính: Nữ; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông Trần Quang H, sinh năm: 1970; Con bà Võ Thị L, sinh năm: 1972; Gia đình có 04 anh chị em, lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất sinh năm 2011, bị cáo là con thứ hai trong gia đình.

Tiền án; Tiền sự: không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/10/2020 đến ngày 06/11/2020 được trả tự do; bị bắt tạm giam từ ngày 05/11/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đà Lạt. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Huỳnh Thanh T, sinh năm: 1993 Địa chỉ: Nhà số 16 đường số F, phường AL quận BT, thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Nhật V và Huỳnh Thanh T là các đối tượng sử dụng ma túy loại cần sa, cả hai có quan hệ tình cảm và sống chung với nhau tại thành phố Hồ Chí Minh, đến ngày 20/6/2020, V và Tiến thuê căn nhà tại địa chỉ 8/1 đường ND, Phường I, thành phố Đà Lạt và chung sống tại đây.

Đầu năm 2020, V mua một số dụng cụ hút, dụng cụ xay, khay đựng, hộp đựng, dụng cụ quấn, tệp giấy quấn để bán lại kiếm lời lấy tiền tiêu xài sinh hoạt chung, đây là những dụng cụ có thể sử dụng để hút cần sa và các loại thảo mộc khác. Thực hiện ý định, V đặt mua các loại dụng cụ trên từ trang mạng Shopee.vn, khu vực Chợ Lớn, đường Hải Thượng Lãn Ông, Lý Thường Kiệt, Thành Thái ở thành phố Hồ Chí Minh để bán online. Việc mua bán được thực hiện từ khi V và Tiến sống ở thành phố Hồ Chí Minh đến khi chuyển đến sinh sống ở Đà Lạt vẫn tiếp tục. Để thực hiện việc bán số dụng cụ này và các mặt hàng tiêu dùng khác, V đã lập tài khoản có tên “G Store - Saigon Headshop 402” được thiết kế biểu tượng có hình lá Cần sa trên các trang mạng xã hội Facebook, Instagram và các trang bán hàng Online như Shopee và Lazada, sau đó V đăng tải các bài viết và hình ảnh của các loại dụng cụ trên và một số hàng hóa tiêu dùng khác lên tài khoản đã tạo. Khi khách có nhu cầu mua thì nhắn số điện thoại và địa chỉ giao hàng vào tài khoản của V. Để thuận tiện cho việc giao hàng, V đã đăng ký sử dụng dịch vụ giao hàng của Công ty cổ phần giao hàng tiết kiệm, công ty này sẽ nhận, giao hàng cho V và thu tiền của khách hàng cho V. Quá trình mua bán, V trực tiếp mua hàng về, đăng bán và trực tiếp quản lý về tài chính, thỉnh thoảng Tiến phụ V việc đóng gói và đi giao hàng cho khách. Lợi nhuận thu được từ việc mua bán các dụng cụ này, V và Tiến sử dụng để chi phí sinh hoạt chung. Trong thời gian kinh doanh số dụng cụ này, V đã lấy 01 hộp để đựng (bản số 11), 03 dụng cụ xay (bản số 9.5, 9.6, 12) và 03 bộ hút (bản số 13, 14, 15) từ số dụng cụ mà V mua bán để làm dụng cụ sử dụng cần sa cho V và Tiến. Đến cuối tháng 7/2020, để phục vụ nhu cầu sử dụng cần sa, V và Tiến bàn bạc với nhau về việc trồng cây cần sa trong căn nhà 8/1 Nguyễn Du, phường 9, Đà Lạt. Thực hiện ý định, Tiến đã tìm và đặt mua 12 hạt giống cây cần sa từ trang web trên Internet và mua quạt điện, đèn quang hợp, ống thông khí, chậu, đất, phân,... tại các chợ ở thành phố Hồ Chí Minh và chợ Đà Lạt để trồng cây cần sa. Tiến đã tiến hành trồng và chăm sóc cây trong căn phòng cuối của căn nhà mà Tiến và V đã thuê nêu trên. Ngày 20/10/2020, Tiến và V đi thành phố Hồ Chí Minh, Tiến đến phố đi bộ Bùi Viện, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh và gặp một người phụ nữ bán thuốc lá dạo mua 30 gam cần sa với giá 2.200.000 đồng. Sau khi mua được cần sa, Tiến nói cho V biết và để cần sa vào 02 hộp đựng (túi niêm phong số 089266, 089267) rồi để tại phòng ngủ của Tiến và V để Tiến và V sử dụng dần. Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 28/10/2020, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Lâm Đồng phối hợp cùng Công an thành phố Đà Lạt kiểm tra nhà số 8/1, đường ND, Phường I, thành phố Đà Lạt. Quá trình kiểm tra phát hiện tại phòng ngủ của Tiến và V có 02 hộp đựng thảo mộc khô nghi là ma túy loại cần sa, một số khay đựng, hộp đựng, bộ xay, bộ hút, phụ kiện của bộ hút, tệp giấy, đế quấn; phát hiện tại căn phòng cạnh phòng ngủ của Tiến, V đang trồng 12 cây thực vật nghi là cây cần sa cùng hệ thống đèn, quạt, ống thông gió đang hoạt động.

Cơ quan Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, mời người chứng kiến, chính quyền địa phương, thu giữ, niêm phong toàn bộ dụng cụ, chất nghi là ma túy và cây thực vật nêu trên; đồng thời thu giữ một số đồ vật tài sản khác liên quan. Kết quả test nhanh ma túy, Huỳnh Thanh T và Trần Nhật V dương tính với chất ma túy loại cần sa.

Tang vật được thu giữ:

- 04 (bốn) đèn; 02 (hai) quạt điện; 12 (mười hai) dụng cụ để hút; 122 (một trăm hai mươi hai) dụng cụ để đựng; 272 (hai trăm bảy mươi hai) dụng cụ để hút; 118 (một trăm mười tám) dụng cụ để hút; 40 (bốn mươi) dụng cụ hút; 36 (ba mươi sáu) dụng cụ hút; 11 (mười một) giá cuốn; 19 (mười chín) tệp giấy cuốn; 21 (hai mươi mốt) dụng cụ để xay; 48 (bốn mươi tám) dụng cụ để hút; 01 (một) hộp nhựa hình trụ tròn đường kính khoảng 7cm, cao 4cm màu xám đã qua sử dụng; 01 (một) hộp nhựa hình trụ tròn màu đen, đường kính khoảng 5cm, cao khoảng 10cm bên trong có chứa cành, lá, hoa, cây dạng thảo mộc nghi là cây cần sa; 01 (một) hộp hình trụ tròn bên trên bề mặt có hoa văn, đường kính khoảng 7cm, cao khoảng 8cm bên trong có chứa cành, lá, hoa, cây dạng thảo mộc nghi là cây cần sa; 01 (một) hộp hình trụ tròn, trên bề mặt có hoa văn, kích thước khoảng 7cm x 6cm; 03 (ba) dụng cụ để sử dụng cần sa; 05 (năm) chậu nhựa trắng có trồng cây (nghi là cây cần sa), các cây có độ cao lần lượt là 0,9m;

1,1m; 1,1m; 1,1m; 1,1m; 03 (ba) chậu nhựa màu trắng có trồng cây nghi là cần sa, các cây có độ cao lần lượt là 50cm, 70cm, 80cm; 04 (bốn) chậu nhựa màu trắng có trồng cây nghi là cây cần sa, các cây có độ cao lần lượt là 11cm, 16cm, 16cm, 24cm;

- 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng, hiệu Iphone mặt lưng màu hồng, có gắn ốp lưng màu đen, số seri FCGSQOYMHG03, IMEI: 359179078093308 gắn sim số 0762808X; 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng, hiệu Iphone mặt lưng màu xám, mặt trước bị nứt, IMEI: 358364- 0682842-70, bên trong có gắn sim số 033808X; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone Apple màu vàng, loại Iphone 6 Plus, gắn sim số 0792X420; 01 (một) xe mô tô màu đỏ hiệu Vision, BS 76C1-X; 01 (một) xe mô tô màu đỏ hiệu Wave RS, BS 59N1-X; 01 (một) chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 044034 tên chủ xe Trần Nhật V, biển đăng ký 76C1-X; 01 (một) chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 023582 tên chủ xe Huỳnh Thanh Danh, biển đăng ký 59N1-X; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân của Trần Nhật V số 212836094; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân của Huỳnh Thanh T số 025384X;

- 01 (một) cân điện tử có kích thước khoảng 13cm x 8cm; 01 (một) máy tính xách tay hiệu HP; 01(một) CPU máy tính màu đen; 01 (một) màn hình máy tính.

Tại Kết luận giám định số 1906/GĐ-PC09 ngày 05/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng xác định:

- Mẫu cành, lá cây thực vật khô đựng trong hai hộp hình trụ tròn (ký hiệu M1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 201,6795g (hai không phẩy sáu bảy chín năm gam), là Cần sa.

- Mẫu 12 cây thực vật tươi (ký hiệu M2) trồng trong 12 chậu nhựa được niêm phong gửi giám định là cây Cần sa.

Cần sa là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT: 45, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại Kết luận giám định số 5928/C09B ngày 28/12/2020 và Công văn số 164/C09B ngày 05/3/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh xác định:

- Trên các bộ phận của các mẫu ký hiệu M9.6, M9.7, M11, M13, M14, M15 có chứa chất ma túy, loại: Delta-9-tetrahydrocannabinol. Mẫu ở dạng vết nên không xác định được khối lượng.

- Các mẫu ký hiệu từ M2 đến M15 là các phương tiện, dụng cụ chuyên dùng vào việc sử dụng chất ma túy Cần sa, (tất cả 703 đơn vị dụng cụ).

Tại bản cáo trạng số 48/CT-VKSĐL-LĐ ngày 06/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng truy tố Trần Nhật V về tội “Tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm đ Khoản 2 Điều 254 Bộ luật hình sự.

Tại Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số 11/2023/HSST-QĐ ngày 17/3/2023, Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt đã yêu cầu điều tra bổ sung nội dung: “yêu cầu cơ quan điều tra nêu rõ căn cứ để xác định “dụng cụ chuyên dùng vào việc sử dụng ma túy Cần sa” là gì? Xác định lại về số lượng dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy mà Trần Nhật V tàng trữ”.

Ngày 18/4/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt ban hành Quyết định trưng cầu giám định đối với dụng cụ xay (Bản số 12) và 02 hộp mà Tiến và V dùng để đựng cần sa (túi niêm phong số 089266, 089267) để xác định những dụng cụ này có phải dụng cụ sử dụng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy không? Loại ma túy gì?.

Tại Kết luận giám định số 2818/C09B ngày 11/5/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh xác định:

- Thảo mộc khô bám dính trong mẫu dụng cụ ký hiệu M1, M2.1, M2.2 được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Delta-9-tetrahydrocannabinol. Mẫu ở dạng vết nên không xác định được khối lượng.

- 03 mẫu dụng cụ ký hiệu M1, M2.1, M2.2 là dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy (dùng để đựng mẫu ma túy loại Delta-9-tetrahydrocannabinol).

Tại bản cáo trạng số 183/CT-VKSĐL-LĐ ngày 07/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng truy tố Trần Nhật V về tội “Tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm đ Khoản 2 Điều 254 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Bị cáo khiếu nại bản cáo trạng về số lượng dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo trình bày chỉ tàng trữ tàng trữ 09 dụng cụ sử dụng ma túy chứ không phải 42 dụng cụ như cáo trạng kết luận vì lý do bị cáo chỉ sử dụng 09 vật dụng vào việc sử dụng cần sa, những dụng cụ khác là có công năng sử dụng vào mục đích khác nhu hút thuốc lá, hút thuốc lào, xay gia vị bị cáo giữ để bán vì đây là những vật dụng không cấm bán.

Đại diện Viện kiểm sát thay đổi một phần quyết định truy tố đối với bị cáo về tình tiết định khung hình phạt và đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo Trần Nhật V phạm tội “Tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b Khoản 1 Điều 254 Bộ luật hình sự; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Nhật V mức hình phạt từ 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Lời nói sau cùng của bị cáo tại phiên tòa: Bị cáo ăn năn hối hận và xin được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm được trở về xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra, tru y tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người liên quan không có ý kiến thắc mắc hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo và tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo Trần Nhật V là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức, bị cáo sử dụng ma túy loại cần sa từ đầu năm 2020 cho đến khi bị bắt quả tang, bị cáo biết rõ việc mua bán, tàng trữ trái phép các chất ma túy, tàng trữ dụng cụ để sử dụng trái phép chất ma là những hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Đầu năm 2020, V mua một số dụng cụ hút, dụng cụ xay, khay đựng, hộp đựng, dụng cụ quấn, tệp giấy quấn để bán lại kiếm lời lấy tiền tiêu xài sinh hoạt, đây là những dụng cụ có thể sử dụng để hút cần sa và các loại thảo mộc khác. V đã đặt mua các loại dụng cụ trên từ trang mạng Shopee.vn, khu vực Chợ Lớn, đường Hải Thượng Lãn Ông, Lý Thường Kiệt, Thành Thái ở thành phố Hồ Chí Minh để bán online. Trong thời gian kinh doanh số dụng cụ này, V đã lấy 03 hộp để đựng, 03 dụng cụ xay và 03 bộ hút từ số dụng cụ mà V mua bán để làm dụng cụ sử dụng cần sa cho V và Tiến.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã dùng 09 ( chín) loại dụng cụ để dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy là cần sa sau đó bị cáo cất giữ trong phòng ngủ cho đến khi bị bắt quả tang , 09 (chín) vật dụng này được lấy ra từ trong số các vật dụng mà bị cáo cất giữ để bán. Các vật dụng mà bị cáo cất giữ là để bán cho người khác dùng vào mục đích khác chứ không phải là dụng cụ chuyên dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại công văn số 1461/SCT-QLTM ngày 29/7/2022 của Sở Công thương UBND tỉnh Lâm Đồng xác định: “…các mặt hàng theo đề nghị xác định danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Đà Lạt không có trong danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh do ngành Công thương quản lý …”. Do đó, chỉ có căn cứ xác định bị cáo đã sử dụng 09 (chín) dụng cụ vào việc sử dụng trái phép chất ma túy là cần sa.

Đại diện Viện kiểm sát thay đổi một phần quyết định truy tố, đề nghị Hội đòng xét xử áp dụng khung hình phạt quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 254 Bộ luật hình sự là có lợi cho bị cáo và phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Trần Nhật V phạm tội “Tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm b Khoản 1 Điều 254 Bộ luật hình sự. Quyết định truy tố bị cáo Trần Nhật V của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với Huỳnh Thanh T: căn cứ biên bản bắt người phạm tội quả tang vào ngày 28/10/2020 và trong các bản tự khai, bản tường trình, biên bản ghi lời khai đến ngày 23/3/2022, lời khai của Trần Nhật V, biên bản đối chất…có căn cứ để xác định Tiến đồng phạm với V trong việc tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy. Tại Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số 11/2023/HSST-QĐ ngày 17/3/2023, Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt đã yêu cầu điều tra bổ sung nội dung: “yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra làm rõ và xem xét xử lý trách nhiệm hình sự đối với Huỳnh Thanh T” nhưng chưa đucợ làm rõ. Hội đồng xét xử tiếp tục kiến nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Huỳnh Thanh T theo quy định.

Đối với hành vi trồng cây cần sa, tàng trữ trái phép cần sa và sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Nhật V và Huỳnh Thanh T, do số lượng cây cần sa và khối lượng cần sa không đủ định lượng để xử lý hình sự nên Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với V và Tiến.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo phạm tội không thuộc trường hợp bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Khi quyết định hình phạt có xem xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo có ông bà ngoại là người có công và được tặng thưởng huy chương kháng chiến nên áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, xâm phạm đến chính sách Nhà nước độc quyền quản lý chất ma túy, góp phần duy trì tệ nạn ma túy và gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội tại địa phương nên cần thiết phải xử phạt nghiêm minh, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Về áp dụng hình phạt bổ sung: Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa không xác định được bị cáo có thu nhập gì từ việc tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 03 (ba) phong bì niêm phong bao gói vật chứng còn lại sau giám định nhà nước cấm lưu hành nên tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 04 (bốn) đèn; 02 (hai) quạt điện; 12 (mười hai) dụng cụ để hút;

122 (một trăm hai mươi hai) dụng cụ để đựng; 272 (hai trăm bảy mươi hai) dụng cụ để hút; 118 (một trăm mười tám) dụng cụ để hút; 40 (bốn mươi) dụng cụ hút; 36 (ba mươi sáu) dụng cụ hút; 11 (mười một) giá cuốn; 19 (mười chín) tệp giấy cuốn; 21 (hai mươi mốt) dụng cụ để xay; 48 (bốn mươi tám) dụng cụ để hút; 04 (bốn) hộp nhựa hình trụ tròn; 03 (ba) dụng cụ để sử dụng cần sa; 12 (mười hai) chậu nhựa trắng: Đây là những dụng cụ không có giá trị, bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng, hiệu Iphone mặt lưng màu hồng, có gắn ốp lưng màu đen, số seri FCGSQOYMHG03, IMEI: 359179078093308 gắn sim số 0762808X; 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng, hiệu Iphone mặt lưng màu xám, mặt trước bị nứt, IMEI: 358364- 0682842-70, bên trong có gắn sim số 033808X; 01 (một) xe mô tô màu đỏ hiệu Vision, BS 76C1-X; 01 (một) chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 044034 tên chủ xe Trần Nhật V, biển đăng ký 76C1-X; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân của Trần Nhật V số 212836094; 01 (một) cân điện tử có kích thước khoảng 13cm x 8cm; 01 (một) máy tính xách tay hiệu HP; 01(một) CPU máy tính màu đen; 01 (một) màn hình máy tính: các tài sản này là của bị cáo Trần Nhật V, không liên quan đến hành vi phạm tội nên tuyên trả cho bị cáo V.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone Apple màu vàng, loại Iphone 6 Plus, gắn sim số 0792X420; 01 (một) xe mô tô màu đỏ hiệu Wave RS, BS 59N1-X; 01 (một) chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 023582 tên chủ xe Huỳnh Thanh Danh, biển đăng ký 59N1-X; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân của Huỳnh Thanh T số 025384X: các tài sản này là Trần Thanh Tiến, không liên quan đến hành vi phạm tội nên tuyên trả cho Huỳnh Thanh T.

[5] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Trần Nhật V phạm tội “Tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b Khoản 1 Điều 254; Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51;

Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Nhật V 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/11/2021 (được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 28/10/2020 đến ngày 06/11/2020 vào thời gian chấp hành hình phạt tù).

[2] Xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 03 (ba) phong bì niêm phong bao gói vật chứng còn lại sau giám định; 04 (bốn) đèn; 02 (hai) quạt điện; 12 (mười hai) dụng cụ để hút; 122 (một trăm hai mươi hai) dụng cụ để đựng; 272 (hai trăm bảy mươi hai) dụng cụ để hút; 118 (một trăm mười tám) dụng cụ để hút; 40 (bốn mươi) dụng cụ hút; 36 (ba mươi sáu) dụng cụ hút; 11 (mười một) giá cuốn; 19 (mười chín) tệp giấy cuốn; 21 (hai mươi mốt) dụng cụ để xay; 48 (bốn mươi tám) dụng cụ để hút; 04 (bốn) hộp nhựa hình trụ tròn; 03 (ba) dụng cụ để sử dụng cần sa; 12 (mười hai) chậu nhựa trắng.

- Trả cho bị cáo Trần Nhật V: 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng, hiệu Iphone mặt lưng màu hồng, có gắn ốp lưng màu đen, số seri FCGSQOYMHG03, IMEI: 359179078093308 gắn sim số 0762808X; 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng, hiệu Iphone mặt lưng màu xám, mặt trước bị nứt, IMEI: 358364-0682842-70, bên trong có gắn sim số 033808X; 01 (một) xe mô tô màu đỏ hiệu Vision, BS 76C1-X; 01 (một) chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 044034 tên chủ xe Trần Nhật V, biển đăng ký 76C1-X; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân của Trần Nhật V số 212836094; 01 (một) cân điện tử có kích thước khoảng 13cm x 8cm; 01 (một) máy tính xách tay hiệu HP; 01(một) CPU máy tính màu đen; 01 (một) màn hình máy tính.

- Trả cho Huỳnh Thanh T: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone Apple màu vàng, loại Iphone 6 Plus, gắn sim số 0792X420; 01 (một) xe mô tô màu đỏ hiệu Wave RS, BS 59N1-X; 01 (một) chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 023582 tên chủ xe Huỳnh Thanh Danh, biển đăng ký 59N1-X; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân của Huỳnh Thanh T số 025384X.

(Các vật chứng có đặc điểm cụ thể như mô tả tại các Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/02/2023 và ngày 10/7/2023 giữa Công an thành phố Đà Lạt và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt).

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về việc áp dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trần Nhật V phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết. Người liên quan chỉ đucợ quyền kháng cáo phần có liên quan. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy số 183/2023/HS-ST

Số hiệu:183/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:31/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về