Bản án về tội sử dụng trái phép chất ma túy số 276/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH Đ

BẢN ÁN 276/2023/HS-PT NGÀY 14/08/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 122/2023/TLPT-HS ngày 18 tháng 04 năm 2023, đối với bị cáo N.T.V do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 40/2023/HSST ngày 07/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện T.

Bị cáo có kháng cáo:

1. N.T.V, sinh năm 1988 tại Đ. Nơi cư trú: Ấp 2, xã S, huyện C, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông N.V.V, sinh năm 1959 và bà N.T.T, sinh năm 1963. Gia đình bị cáo có 04 chị em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình. Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại bản án số 416/2014/HSST Ngày 15/7/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” - Bị cáo có mặt.

Bị cáo bị bắt quả tang và giam giữ từ ngày 22/9/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đ. Ngoài ra còn có bị cáo L.N.B.T không kháng cáo, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

N.T.V và L.N.B.T có quan hệ tình cảm với nhau từ khoảng tháng 6/2021, cả hai đều nghiện ma tuý đá. Khoảng 19 giờ ngày 21/9/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên V sử dụng điện thoại di động hiệu iphone 7 plus màu vàng gắn sim số X.910.641 liên lạc với đối tượng tên N (không rõ nhân thân, lai lịch) để hỏi mua ma túy. Sau khi thỏa thuận, V điều khiển xe mô tô hiệu Honda Sonic màu đỏ đen biển số 60B9-X đến khu vực gần nghĩa trang A, xã A, huyện T mua 01 (một) gói ma túy đá của N với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, V mang đến nhà T rủ T cùng sử dụng thì T đồng ý và lấy công cụ sử dụng ma túy (gồm chai nhựa, ống hút, nỏ thủy tinh) ra cùng V sử dụng một phần ma túy, sau khi sử dụng ma túy xong thì T và V đi ngủ. Khoảng 10 giờ ngày 22/9/2022, V và T tiếp tục sử dụng ma túy còn lại trong nỏ thủy tinh rồi T cất giấu số ma túy chưa sử dụng trong gói ma túy và công cụ sử dụng ma túy vào thùng nhựa màu vàng trong tủ đựng chén dưới bếp. Đến 11 giờ 05 phút cùng ngày, Công an huyện T phối hợp Công an thị trấn T kiểm tra phát hiện bắt quả tang.

- Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói nylon hàn kín, chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong vào bì giấy dán kín, ngoài phong bì có chữ ký của đối tượng L.N.B.T và N.T.V và hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện T (ký hiệu M1).

Ngày 22/9/2022 Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 450/QĐ gửi Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ giám định chất ma tuý. Kết luận giám định số: 2030/KL-KTHS ngày 28/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Đ, kết luận:

“- Mẫu tinh thể màu trắng (Ký hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,0079 gam, loại Methamphetamine.

- Mẫu chất màu vàng đục dính trong 01 (một) nỏ thủy tinh (Ký hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine. Mẫu dạng vết không xác định được khối lượng.

Hoàn lại đối tượng giám định. Mẫu M2 đã sử dụng hết trong công tác giám định. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: M1=0,0667 gam.” .

Quá trình điều tra, N.T.V và L.N.B.T khai nhận từ khoảng tháng 3/2022 đến ngày 22/9/2022 cả hai đã sử dụng chung ma túy với nhau khoảng 10 lần, cụ thể vào những ngày V nhận lương (ngày 30 hàng tháng), V mua ma túy đá từ đối tượng tên N mang đến nhà T còn T lấy dụng cụ sử dụng ma túy của mình gồm nỏ thủy tinh, chai nhựa, ống hút để cùng nhau sử dụng ma túy. Ngoài ra, T khai nhận còn có một lần cùng V sử dụng chung ma túy với người bạn không rõ tên tuổi và địa điểm sử dụng.

Tại bản án số 40/2023/HSST ngày 07/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện T đã căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo N.T.V 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Ngoài ra bản án còn xử phạt bị cáo L.N.B.T 07 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 20 tháng 03 năm 2023, bị cáo N.T.V kháng cáo lý do: Cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 08 năm tù là quá nặng, bị cáo đề nghị cấp phúc thẩm giảm hình phạt cho bị cáo.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ:

Cấp sơ thẩm đã đánh giá nhân thân, tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết giảm nhẹ và áp dụng điểm a khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo N.T.V 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là có căn cứ pháp luật nên cần giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp chứng cứ giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sơ nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo: Cấp sơ thẩm xác định, từ khoảng tháng 3/2022 đến ngày 22/9/2022, tại nhà của L.N.B.T thuộc khu phố 2, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đ, N.T.V và L.N.B.T có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nhiều lần (khoảng 10 lần). Trong đó, N.T.V là người cung cấp ma túy còn L.N.B.T sử dụng nơi ở của mình làm địa điểm và cung cấp dụng cụ (nỏ thủy tinh, chai nhựa, ống hút) để cùng nhau sử dụng ma túy. Bị cáo phạm tội nhiều lần, là người rủ bị cáo T cùng sử dụng, cấp sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, xử phạt bị cáo 08 năm tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, nên cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Quan điểm và đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ về việc giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[5] Về án phí: Kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án 200.000đ phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 khoản 2 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự số 93/2023/HSST ngày 08 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đ.

- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo N.T.V 08 (tám) năm tù về tội “Sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 22/9/2022.

2. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo N.T.V phải nộp 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sử dụng trái phép chất ma túy số 276/2023/HS-PT

Số hiệu:276/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về