TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 98/2023/HS-ST NGÀY 23/06/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Trong ngày 23 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 89/2023/TLST-HS, ngày 01 tháng 6 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 96/2023/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2023, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nghiêm Văn H, sinh năm 1995; nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện H, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nghiêm Văn H, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1974; vợ: Nguyễn Thị B, sinh năm 1997; con: Có 01 con, sinh năm 2021; tiền án: Không có; tiền sự: Không có.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1998; nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện H, tỉnh B (có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Năm 2010, Nghiêm Văn H xuất cảnh đi Cộng hòa liên bang Nga để du học sau đó bỏ ra ngoài làm việc trái phép. Năm 2019, bị cáo nhập cảnh trở về Việt Nam sau đó đi làm thủ tục gia hạn thị thực (visa) thì biết không hợp lệ vì bị cáo đã cư trú và lao động trái phép tại CHLB Nga. Do muốn quay trở lại CHLB Nga để lao động, nên bị cáo đã truy cập vào trang mạng xã hội “Người Việt ở Nga” để tìm hiểu thì có tài khoản đăng nội dung cách thay đổi tên tuổi để có thể quay trở lại CHLB Nga kèm số điện thoại 0964.967.763 để liên hệ. Bị cáo gọi vào số điện thoại này thì gặp một người đàn ông nói giọng miền Trung hướng dẫn cách thức mượn chứng minh nhân dân của người khác để đi làm hộ chiếu rồi làm thủ tục xuất cảnh. Sau đi được hướng dẫn, bị cáo đã đến gặp anh Nguyễn Văn H là em họ ở cùng thôn và hỏi mượn giấy chứng minh nhân dân. Anh Nguyễn Văn H đồng ý và mượn chứng minh nhân dân số 122289518. Khi đặt vấn đề mượn chứng minh nhân dân thì bị cáo không nói và anh Nguyễn Văn H cũng không hỏi về mục đích bị cáo mượn chứng minh nhân dân.
Khoảng tháng 6/2019, bị cáo gửi chứng minh nhân dân đã mượn của anh Nguyễn Văn H trước đó và chứng minh nhân dân số 122112383 của bị cáo (kèm theo 03 ảnh 4x6 của bị cáo) vào thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An (bị cáo không nhớ địa chỉ cụ thể). Khoảng 02 ngày sau, một người đàn ông gọi điện thoại cho bị cáo và bảo đi vào thành phố Vinh để làm chứng minh nhân dân giả. Bị cáo gặp người đàn ông tại một nhà nghỉ (không nhớ tên và địa chỉ) ở thành phố Vinh và được người đàn ông này lăn dấu vân tay, chụp ảnh và bảo thanh toán số tiền 300 USD để làm chứng minh nhân dân. Bị cáo trả cho người đàn ông này số tiền trên. Khoảng 03 ngày sau, bị cáo nhận được chứng minh nhân dân qua đường bưu điện. Bị cáo kiểm tra thấy thông tin trên chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn H nhưng dán ảnh của bị cáo. Sau đó, bị cáo gặp anh Nguyễn Văn H để mượn sổ hộ khẩu của gia đình và nói mục đích mượn để đi xin việc ở công ty thì anh Nguyễn Văn H đồng ý cho mượn.
Ngày 04/7/2019, bị cáo đem chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn H (nhưng dán ảnh của bị cáo) và sổ hộ khẩu của anh Nguyễn Văn H đi đến Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Bắc Giang làm thủ tục xin cấp hộ chiếu. Tại đây, bị cáo đã sử dụng chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Văn H và viết tờ khai xin cấp hộ chiếu. Ngày 11/7/2019, bị cáo được Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Bắc Giang cấp hộ chiếu số C7798114 mang tên Nguyễn Văn H. Ngày 26/8/2019, bị cáo sử dụng hộ chiếu này làm thủ tục và xuất cảnh được sang CHLB Nga. Ngày 11/12/2022, bị cáo trở về Việt Nam thì bị Công an cửa khẩu hàng không Quốc tế Nội Bài phát hiện và thu giữ hộ chiếu số C7798114 mang tên Nguyễn Văn H.
Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Giang đã thu tại Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Bắc Giang “Tờ khai dùng cho công dân Việt Nam đề nghị cấp, sửa đổi hộ chiếu phổ thông ở trong nước đề ngày 04/7/2019” và trưng cầu giám định chữ ký và chữ viết của Nghiêm Văn H trên tài liệu này.
Kết luận giám định số: 447/KL-KTHS ngày 17/3/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Chữ ký (dạng chữ viết) có nội dung „„Hưng‟‟ tại mục „„Người đề nghị‟‟ và chữ viết mực xanh trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A) so với chữ ký, chữ viết của Nghiêm Văn H trên các tài liệu mẫu (ký hiệu từ M1 đến M5) là do cùng một người ký, viết ra.
Tại Bản Cáo trạng số: 104/CT-VKS ngày 29/5/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang truy tố Nghiêm Văn H về tội: “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà:
Bị cáo Nghiêm Văn H khai nhận toàn bộ hành vi như sau:
Năm 2019, sau khi từ Cộng hòa LB Nga trở về Việt Nam, bị cáo muốn xuất cảnh trở lại, nên đã đi làm thủ tục gia hạn thị thực visa thì biết không hợp lệ vì bị cáo đã cư trú và lao động trái phép tại CHLB Nga. Bị cáo đã truy cập vào trang mạng xã hội “Người Việt ở Nga” để tìm hiểu thì có tài khoản đăng nội dung cách thay đổi tên tuổi để có thể quay trở lại CHLB Nga kèm số điện thoại 0964.967.763 để liên hệ. Bị cáo gọi vào số điện thoại này thì gặp một người đàn ông nói giọng miền Trung hướng dẫn cách thức mượn chứng minh nhân dân của người khác để đi làm hộ chiếu rồi làm thủ tục xuất cảnh. Bị cáo mượn giấy chứng minh nhân dân anh Nguyễn Văn H. Bị cáo gửi chứng minh nhân dân đã mượn của anh Nguyễn Văn H trước đó và chứng minh nhân dân kèm theo ảnh của bị cáo vào thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Khoảng 02 ngày sau, bị cáo đi vào thành phố Vinh để làm chứng minh nhân dân giả. Bị cáo gặp người đàn ông tại một nhà nghỉ (không nhớ tên và địa chỉ) ở thành phố Vinh và được người đàn ông này lăn dấu vân tay, chụp ảnh và bảo thanh toán số tiền 300 USD để làm chứng minh nhân dân. Khoảng 03 ngày sau, bị cáo nhận được chứng minh nhân dân qua đường bưu điện. Sau đó, bị cáo mượn sổ hộ khẩu của gia đình anh Nguyễn Văn H. Ngày 04/7/2019, bị cáo đem chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn H (nhưng dán ảnh của bị cáo) và sổ hộ khẩu của anh Nguyễn Văn H đi đến Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Bắc Giang làm thủ tục xin cấp hộ chiếu. Tại đây, bị cáo đã sử dụng chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Văn H và viết tờ khai xin cấp hộ chiếu. Ngày 11/7/2019, bị cáo được Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Bắc Giang cấp hộ chiếu số C7798114 mang tên Nguyễn Văn H. Ngày 26/8/2019, bị cáo sử dụng hộ chiếu này làm thủ tục và xuất cảnh được sang CHLB Nga. Ngày 11/12/2022, bị cáo trở về Việt Nam thì bị Công an cửa khẩu hàng không Quốc tế Nội Bài phát hiện và thu giữ hộ chiếu số C7798114 mang tên Nguyễn Văn H. Nay bị cáo thấy là sai trái, là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn H có lời khai xác định : Năm 2019, anh cho bị cáo mượn chứng minh nhân dân và hộ khẩu, vì có quan hệ bạn bè hàng xóm, nên anh đã đồng ý, nhưng không biết mục đích bị cáo sử dụng để đi làm chứng minh nhân dân giả để làm hộ chiếu xuất cảnh, nhưng anh không được hưởng lợi gì.
Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên toà sau khi phân tích tính chất, nội dung hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vẫn giữ nguyên về tội danh, đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Về áp dụng điều luật và mức hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Nghiêm Văn H từ 70.000.000 đồng đến 90.000.000 đồng về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
2. Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Phần tranh luận: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận.
Lời nói sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, đề nghị được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Căn cứ các chứng cứ tài liệu được thẩm tra, kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bắc Giang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2]. Về tội danh: Sau khi xem xét lời khai của bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có trong hồ sơ cũng như tại phiên toà, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy: Nghiêm Văn H có thời gian học tập, lao động tại Cộng hòa liên bang Nga. Năm 2019, bị cáo trở về Việt Nam sau đó đi làm thủ tục gia hạn thị thực thì biết visa của bị cáo không hợp lệ vì cư trú và lao động trái phép. Do muốn nhập cảnh trở lại vào CHLB Nga, nên bị cáo đã tìm hiểu trên mạng xã hội và biết cách thức mượn chứng minh nhân dân của người khác để đi làm hộ chiếu. Bị cáo mượn chứng minh nhân dân số 122289518 của anh Nguyễn Văn H sau đó thuê người khác làm chứng minh nhân dân mang Nguyễn Văn H nhưng gắn ảnh của bị cáo. Sau đó, bị cáo đã sử dụng chứng minh nhân dân này làm thủ tục và được cấp hộ chiếu số C7798114 mang tên Nguyễn Văn H. Bị cáo sử dụng hộ chiếu này làm các thủ tục và nhập cảnh vào CHLB Nga. Đến ngày 11/12/2022, bị cáo trở về Việt Nam thì bị Công an cửa khẩu hàng không Quốc tế Nội Bài phát hiện và thu giữ hộ chiếu số C7798114 mang tên Nguyễn Văn H.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự quản lý hành chính của nhà nước.
Bị cáo có năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Nghiêm Văn H phạm tội: “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, theo khoản 1 Điều 341 của Bộ luật hình sự, quy định: “1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm”.
Do đó, Cáo trạng số: 104/CT-VKS ngày 29/5/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang truy tố đối với bị cáo Nghiêm Văn H là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Xét đề nghị của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử thấy là có căn cứ, mức hình phạt là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử cần xem xét như sau:
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại cơ quan Điều tra, cũng như tại phiên toà, bị cáo tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ để áp dụng cho bị cáo theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Qua đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, mục đích sử dụng giấy tờ giả xuất cảnh để đi làm kinh tế, không dùng giấy tờ giả để chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc thực hiện hành vi phạm tội nào khác. Nên, chỉ cần áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo, để giáo dục bị cáo theo Điều 35 của Bộ luật hình sự.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo bị áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 4 Điều 341 của Bộ luật hình sự.
[5]. Các vấn đề khác liên quan trong vụ án:
5.1. Cơ quan điều tra xác minh số thuê bao 0964.967.763 là do Công ty TNHH Một thành viên In ấn Công nghiệp Ánh Dương, địa chỉ số 40 ngách 64/30 Phan Đình Giót, phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội đăng ký và kích hoạt số thuê bao nhưng hiện tại đã chấm dứt hợp đồng . Cơ quan điều tra xác minh tại Sở Kế hoạch đầu tư thành phố Hà Nội xác định: Công ty Ánh Dương có giám đốc là Nguyễn Thị Hoa, sinh năm 1975, trú tại số nhà 209, ngõ 66, phố Nguyễn Sơn, phường Ngọc Lâm, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Bà Nguyễn Thị Hoa khai công ty dừng hoạt động từ năm 2019. Trong quá trình hoạt động thì công ty có làm dịch vụ in ấn và bán sim điện thoại, bà Nguyễn Thị Hoa không sử dụng số điện thoại 0964.967.763 và cũng không biết ai đã đăng ký sử dụng số điện thoại trên. Kết quả điều tra không làm rõ được người đã làm giả chứng minh nhân dân cho Nghiêm Văn H. Nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.
5.2. Đối với Nguyễn Văn H cho bị cáo mượn chứng minh nhân dân và hộ khẩu nhưng không biết mục đích bị cáo sử dụng để đi làm chứng minh nhân dân giả để làm hộ chiếu xuất cảnh nên Cơ quan điều tra không xử lý. Hội đồng xét xử thấy là có căn cứ.
5.3. Đối với chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn H sau khi sử dụng và được cấp hộ chiếu thì Huy khai đã vứt bỏ chứng minh nhân dân này; chứng minh nhân mang tên Nghiêm Văn H thì bị cáo khai người đàn ông ở Nghệ An không trả lại nên Cơ quan điều tra không thu giữ được. Nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.
[6]. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
[7]. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, để Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Nghiêm Văn H số tiền 70.000.000 đồng (Bẩy mươi triệu đồng) để sung vào ngân sách nhà nước, về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Nghiêm Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6;
7; 7a; 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
3. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 98/2023/HS-ST
Số hiệu: | 98/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về