TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 88/2023/HS-ST NGÀY 08/09/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Trong ngày 08 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 86/2023/HSST, ngày 14 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/2023/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:
Hà Sỹ B; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 25/9/1978 tại B; Nơi đăng HKTT và chỗ ở: Tổ 1B, phường Đ, thành phố B, tỉnh B; Dân tộc: Tày; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 6/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Hà Sỹ D (đã chết) và bà Nông Thị B1; Bị cáo có vợ là Phạm Thị S; Bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2005, con nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, tại ngoại tại địa phương, có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Sở Giao thông vận tải tỉnh B. Đại diện tham gia tố tụng: Ông Đặng Quang H – chức vụ: Phó Giám đốc. (Vắng mặt có lý do).
- Ông Ma Trương T, sinh năm 1969.
Nghề nghiệp, chức vụ: Chánh thanh tra tỉnh B. (Nguyên Giám đốc Sở Giao thông vận tải tỉnh B). (Vắng mặt có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 06 giờ 15 phút ngày 24/02/2022, tại Bến xe khách tỉnh Bắc Kan thuộc tổ 9B, phường Đ, thành phố B, tỉnh B, Thanh tra Sở Giao thông vận tải tỉnh B tiến hành kiểm tra và lập biên bản vi phạm hành chính đối với Hà Sỹ B về hành vi điều khiển xe ô tô khách biển kiểm soát 97B - xxxxx (thuộc Hợp tác xã vận tải Thống Nhất, có địa chỉ tại tổ 11B, phường S, thành phố B, tỉnh B, chạy tuyến cố định B - Na Rì) để hàng hoá trong khoang chở hành khách, vi phạm quy định tại điểm đ, khoản 3, Điều 23 Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Tại thời điểm kiểm tra, Hà Sỹ B xuất trình 01 (một) giấy phép lái xe ô tô hạng D, số 06021900xxxx, cấp ngày 15/4/2021, mang tên Hà Sỹ B, có giá trị đến ngày 15/4/2026, có dấu đỏ ghi Sở Giao thông vận tải tỉnh B, có chữ ký ghi tên Ma Trương Th (Giám đốc Sở). Quá trình lập biên bản vi phạm và tạm giữ giấy phép lái xe ô tô của Hà Sỹ B để xử lý, Thanh tra Sở Giao thông vận tải tỉnh B thấy giấy phép lái xe trên của Hà Sỹ B có một số điểm nghi vấn nên đã tiến hành xác minh. Kết quả xác minh xác định Sở Giao thông vận tải tỉnh B không cấp giấy phép lái xe ô tô hạng D số 06021900xxxx, ngày 15/4/2021 cho Hà Sỹ B.
Xét thấy vụ việc có dấu hiệu của tội phạm nên ngày 29/4/2022, Sở Giao thông vận tải tỉnh B đã chuyển vụ việc đến Công an tỉnh B đề nghị xác minh làm rõ. Sau đó, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh B ra quyết định khởi tố vụ án về tội "Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức" và chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B để điều tra theo thẩm quyền.
Hà Sỹ B khai nhận: Khoảng tháng 6 năm 2021, Hà Sỹ B lên mạng xã hội Facebook và thấy một tài khoản trên trang Facebook (Hà Sỹ B không nhớ tên tài khoản Facebook) đăng tải quảng cáo về việc nhận làm giấy phép lái xe mà không cần phải học, thi sát hạch. Thấy vậy, Hà Sỹ B đã liên lạc và trao đổi với người có tài khoản Facebook nói trên thông qua ứng dụng Messenger đặt vấn đề làm giấy phép lái xe ô tô hạng D để sử dụng. Hai bên thỏa thuận giá làm giấy phép lái xe là 5.000.000đ (năm triệu đồng). Sau khi thống nhất, Hà Sỹ B cung cấp thông tin cá nhân gồm ảnh chụp chứng minh nhân dân và hai ảnh chụp chân dung cỡ 4cm x 6cm của B gửi cho người có tài khoản Facebook nói trên để làm giấy phép lái xe. Khoảng một tuần sau, thông qua dịch vụ chuyển phát nhanh của Bưu điện, Hà Sỹ B nhận được 01 (một) giấy phép lái xe ô tô hạng D, số 06021900xxxx, cấp ngày 15/4/2021, mang tên Hà Sỹ B, có giá trị đến ngày 15/4/2026, có dấu đỏ ghi Sở Giao thông vận tải tỉnh B, có chữ ký ghi tên Ma Trương Th (Giám đốc Sở). Hà Sỹ B trực tiếp thanh toán số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) với nhân viên chuyển phát của Bưu điện để trả cho bên làm giấy phép lái xe. Sau khi có được giấy phép lái xe trên, Hà Sỹ B đã sử dụng giấy phép lái xe trong quá trình điều khiển xe ô tô khách biển kiểm soát 97B- xxxxx từ nhà ở thuộc tổ 1B, phường Đ, thành phố B ra Bến xe khách B hoặc trả hàng và trả khách trong khu vực thành phố B nếu lái xe do B thuê có việc bận. Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 24/02/2022, Hà Sỹ B điều khiển xe ô tô khách biển kiểm soát 97B- xxxxx từ nhà ở thuộc tổ 1B, phường Đ, thành phố B đến Bến xe khách B thuộc tổ 9B, phường Đ, thành phố B, tỉnh B để đón khách thì bị Thanh tra Sở Giao thông vận tải tỉnh B kiểm tra và lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi điều khiển xe ô tô khách biển kiểm soát 97B - xxxxx để hàng hoá trong khoang chở hành khách, đồng thời tạm giữ giấy phép lái xe ô tô hạng D số 06021900xxxx nói trên của B để xử lý theo quy định.
Tại Kết luận giám định số 80/KL- KTHS-TL ngày 27/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: “Hình dấu tròn màu đỏ trên tài liệu cần giám định (Giấy phép lái xe hạng D số 06021900xxxx, cấp cho Hà Sỹ B, sinh ngày 25/9/1978, ngày cấp 15/4/2021) với hình dấu có cùng nội dung trên tài liệu mẫu so sánh (hình dấu của Sở Giao thông vận tải B) không phải là do cùng một con dấu đóng ra”.
Tại Kết luận giám định số 170/KL- KTHS ngày 18/8/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: “Chữ ký ghi tên Ma Trương Th trên tài liệu cần giám định (Giấy phép lái xe hạng D số 06021900xxxx, cấp cho Hà Sỹ B, sinh ngày 25/9/1978, ngày cấp 15/4/2021) với chữ ký ghi tên Ma Trương Th trên tài liệu mẫu so sánh (công văn số 1704/SGTVT – VP ngày 19/12/2018 và Quyết định 511/QĐ – SGTVT ngày 13/12/2018) không có cùng đặc điểm do một người ký ra”.
Tại Kết luận giám định số 114/KL-KTHS ngày 17/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: “Giấy phép lái xe ô tô hạng D, số:
06021900xxxx cấp cho Hà Sỹ B, sinh ngày 25/9/1978 là giả, không phải do cơ quan có thẩm quyền cấp”.
Về vật chứng của vụ án: 01 (một) Giấy phép lái xe ô tô hạng D, số:
06021900xxxx mang tên Hà Sỹ B (Là Giấy phép lái xe giả) được lưu trong hồ sơ vụ án.
Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Sở Giao thông vận tải tỉnh B và ông Ma Trương Th - nguyên Giám đốc Sở giao thông vận tải tỉnh B, hiện đang giữ chức vụ Chánh Thanh tra tỉnh B) không yêu cầu Hà Sỹ B phải bồi thường về dân sự.
Tại phiên toà sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố tại bản cáo trạng số 61/CT - VKSTPBK ngày 12/8/2023 truy tố bị cáo Hà Sỹ B về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự và tại bản luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, cụ thể như sau:
- Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Hà Sỹ B phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Hà Sỹ B từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Về vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106/BLTTHS: Tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án 01 Giấy phép lái xe hạng D số 06021900xxxx, cấp cho Hà Sỹ B, sinh ngày 25/9/1978, ngày cấp 15/4/2021 (Là Giấy phép lái xe giả).
- Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo B nói lời sau cùng, có ý kiến mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất, cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà, bị cáo Hà Sỹ B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Ngày 24/02/2022, Hà Sỹ B có hành vi sử dụng Giấy phép lái xe ô tô giả hạng D, số 06021900xxxx, mang tên Hà Sỹ B trong quá trình điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 97B - xxxxx di chuyển từ nhà ở của B thuộc tổ 1B, phường Đ, thành phố B đến Bến xe khách B thuộc tổ 9B, phường Đ, thành phố B, tỉnh B thì bị tổ công tác của Thanh tra Sở Giao thông vận tải tỉnh B kiểm tra hành chính và phát hiện hành vi sử dụng giấy phép lái xe ô tô giả của Hà Sỹ B.
Hành vi nêu trên của Hà Sỹ B đã phạm tội“Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Điều luật có nội dung:
“1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm.
….
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.” [3] Hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả nhằm lừa dối cơ quan chức năng để tránh bị xử lý vi phạm của Hà Sỹ B là vi phạm pháp luật và nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động quản lý hành chính của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức về con dấu, tài liệu, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của các cơ quan chức năng trong quản lý hành chính Nhà nước.
[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng. Đây là lần đầu bị cáo phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có bố đẻ là ông Hà Sỹ D được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến Hạng ba. Vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Sau khi xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, ổn định, quá trình sinh sống tại địa phương chưa có tiền án, tiền sự và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, gia đình, người thân của bị cáo sẽ gặp nhiều khó khăn nếu bị cáo phải đi chấp hành án ở trại cải tạo vì bị cáo là lao động chính trong gia đình, vợ bị cáo đã đi xuất khẩu lao động, bị cáo một mình nuôi 03 con từ nhiều năm nay, bị cáo có con còn nhỏ. Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi cuộc sống xã hội, mà chỉ cần giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục vẫn đảm bảo tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt và răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
[6] Về vật chứng trong vụ án: Đối với 01 Giấy phép lái xe hạng D số 06021900xxxx, cấp cho Hà Sỹ B, sinh ngày 25/9/1978, ngày cấp 15/4/2021 (Là Giấy phép lái xe giả). Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (Sở Giao thông vận tải B và ông Ma Trương T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường bất cứ khoản gì, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có khả năng để thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[9] Đối với việc ngày 21/3/2022, Thanh tra Sở giao thông vận tải tỉnh B đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ số 19/QĐ-XPVPHC đối với Hà Sỹ B về hành vi “Để hàng hoá trong khoang chở khách” theo quy định tại điểm đ Khoản 3 Điều 23 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ và “Sử dụng giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp” theo quy định tại Điểm b Khoản 9 Điều 21 Nghị định số 123/2021/NĐ-CP ngày 28/12/2021 của Chính phủ. Ngày 08/3/2023, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố B ban hành văn bản số 116/CSĐT(ĐTTH) đề nghị Thanh tra Sở Giao thông vận tải tỉnh B xem xét hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ số 19/QĐ-XPVPHC ngày 21/3/2022 đối với Hà Sỹ B. Ngày 17/3/2023, Thanh tra Sở Giao thông vận tải B đã ra Quyết định số 01/QĐ-HB về việc hủy bỏ quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính số 19/QĐ-XPVPHC ngày 21/3/2022 đối với Hà Sỹ B. Đối với hành vi “Để hàng hóa trong khoang chở khách” của Hà Sỹ B vào ngày 24/02/2022 không cấu thành tội phạm. Mặt khác hành vi này của Hà Sỹ B đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không xem xét xử lý là đúng quy định.
[10] Quá trình điều tra xác định chiếc xe ô tô biển kiểm soát 97B - xxxxx là thuộc sở hữu của Hà Sỹ B hoạt động dưới sự điều hành của Hợp tác xã vận tải Thống Nhất có địa chỉ tại tổ 11B, phường S, thành phố B, tỉnh B. Hợp tác xã vận tải Thống Nhất hoạt động về lĩnh vực vận tải hành khách theo tuyến cố định và hợp đồng. Toàn bộ các xe ô tô đều là tài sản của cá nhân, Hợp tác xã chỉ điều hành (cấp lệnh vận chuyển) trong đó có chiếc xe ô tô biển kiểm soát 97B-xxxxx của Hà Sỹ B. Ngày 24/02/2022, Hợp tác xã không cấp lệnh vận chuyển xe cho Hà Sỹ B điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 97B - xxxxx. Việc Hà Sỹ B tự ý điều khiển chiếc xe trên vào ngày 24/02/2022 Hợp tác xã vận tải Thống Nhất không biết nên Cơ quan điều tra không xem xét, xử lý Hợp tác xã vận tải Thống Nhất về hành vi “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ”, Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp với quy định của pháp luật.
[11] Về án phí: Bị cáo B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Hà Sỹ B phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Hà Sỹ B 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND phường Đ, thành phố B, tỉnh B nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục. Trong trường hợp bị cáo B thay đổi nơi cư trú được thực hiện theo Điều 92 Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017; Điều 106/BLTTHS 2015: Lưu trong hồ sơ vụ án 01 Giấy phép lái xe hạng D số 06021900xxxx, cấp cho Hà Sỹ B, sinh ngày 25/9/1978, ngày cấp 15/4/2021 (Là Giấy phép lái xe giả).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí: Bị cáo Hà Sỹ B phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 88/2023/HS-ST
Số hiệu: | 88/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về