Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 38/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 38/2023/HS-ST NGÀY 30/05/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 30 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai theo hình thức số hóa vụ án hình sự thụ lý số 24/2023/TLST-HS, ngày 28/4/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2023/QĐXXST-HS, ngày 16/5/2023 đối với bị cáo:

Nguyn Tr Đ, sinh ngày 11/01/1992 tại huyện T, tỉnh Phú Thọ.

Nơi cư trú: Khu 7, xã L, huyện T, tỉnh Phú Thọ; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Nguyễn Đức K, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1969; vợ: Nguyễn Thị B, sinh năm 1994; con: Có 04 con, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 10 năm 2022, Nguyễn Tr Đ sử dụng nick name “Đức Khang” đăng nhập vào Facebook thấy có trang Facebook (không nhớ cụ thể trang nào) quảng cáo làm Giấy phép lái xe các loại với giá từ 3.000.000đ đến 5.000.000đ không cần đi học và thi sát hạch. Thấy giá rẻ hơn so với đi học và thi giấy phép lái xe thật nên Nguyễn Tr Đ nhắn tin qua ứng dụng Messenger đặt mua 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C và được hướng dẫn cung cấp các thông tin gồm ảnh chân dung 3cmx4cm và ảnh căn cước công dân gửi qua ứng dụng Messenger để có thông tin làm giấy phép lái xe giả. Đ và người nhắn tin thỏa thuận giá là 3.000.000đ, khi nào nhận Giấy phép lái xe và kiểm tra đúng như yêu cầu thì chuyển tiền cho người giao hàng. Khoảng 01 tuần sau có một nam thanh niên giao hàng đến giao cho Đ 01 bưu phẩm, Đ nhận hàng kiểm tra thì thấy bên trong có 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng C số 240226010X mang tên Nguyễn Tr Đ, sinh ngày 11/01/1992; Quốc tịch Việt Nam; nơi cư trú: Khu 9, X. L, H. T, T. Phú Thọ; ghi ngày cấp ngày 17/10/2021, in dấu Sở giao thông vận tải tỉnh Phú Thọ và chữ ký Phó Giám đốc Sở Trịnh Văn Tr. Thấy đầy đủ các thông tin như cung cấp Đ đưa cho người giao hàng 3.000.000đ. Sau khi nhận được giấy phép lái xe Đ chưa sử dụng lần nào.

Ngày 08/02/2023, Đào Minh T, sinh ngày 01/3/1989, trú tại Khu 11, xã L, huyện T, tỉnh Phú Thọ điều khiển xe ô tô biển số 19A-X, nhãn hiệu KIA SOLUTO AB1.4 MT FS5, chở theo Đ đi từ nhà đến thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang để thăm người ốm. Khi đi đến địa phận huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang (không xác định được vị trí cụ thể), thì Đ thay T điều khiển xe ô tô. Khoảng 12 giờ cùng ngày, khi đi đến Km175+800m Quốc lộ 2 Hà Nội – Hà Giang thuộc tổ dân phố Tân Tr, thị trấn Tân Yên, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang thì bị tổ công tác Đội Cảnh sát giao thông, trật tự Công an huyện Hàm Yên ra hiệu lệnh dừng xe vì chạy quá tốc độ. Quá trình kiểm tra, Đ xuất trình 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C giả đã mua trước đó, qua kiểm tra tổ tuần tra nghi giấy phép lái xe trên là giả nên chuyển tin báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Yên để giải quyết theo quy định.

Tại Kết luận giám định số 287/KL-KTHS ngày 11/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: “GIẤY PHÉP LÁI XE/DRIVER’S LICENSE, số 240226010X hạng C, mang tên Nguyễn Tr Đ;

ngày sinh 11/01/1992; Quốc tịch: Việt Nam; Nơi cư trú: Khu 9, X. L, H. T, T. Phú Thọ; ghi ngày cấp 17/10/2021” là giả.

Công văn số 378/SGTVT-QLVT,PT&NL, ngày 16/02/2023 của Sở Giao thông vận tải tỉnh Phú Thọ về việc phúc đáp văn bản số 46/YC-ĐTTH ngày 13/02/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Yên, xác định: Dữ liệu quản lý Giấy phép lái xe không có thông tin số giấy phép 240226010X, hạng C, cấp ngày 17/10/2021, mang tên ông Nguyễn Tr Đ, sinh ngày 11/01/1992, nơi cư trú: L – T - Phú Thọ.

Tại bản Cáo trạng số 25/CT-VKSHY, ngày 27/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên đã truy tố Nguyễn Tr Đ về tội «Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức» quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo tội danh, điều luật đã nêu trong Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tr Đ phạm tội «Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức».

- Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Tr Đ từ 06 đến 08 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 04 (Bốn) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND cấp xã nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng Kiểm sát viên đề nghị HĐXX áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự tịch thu lưu hồ sơ vụ án 01 Giấy phép lái xe giả hạng C, mang tên Nguyễn Tr Đ.

Ngoài ra, Kiểm sát viên còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, đồng thời tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tr Đ khai nhận trước đó bị cáo đã đăng ký thi sát hạch và được Sở giao thông vận tải tỉnh Phú Thọ cấp Giấy phép lái xe hạng B2 vào năm 2010. Vào tháng 10/2022, bị cáo truy cập mạng Facebook, thấy có 01 địa chỉ Facebook quảng cáo làm Giấy phép lái xe với giá từ 3.000.000đ – 5.000.000đ nên bị cáo đã truy cập và liên hệ bằng tài khoản Facebook của cá nhân để đặt mua 01 Giấy phép lái xe hạng C với giá 3.000.000đ. Sau đó khoảng một tuần bị cáo được một nhân viên giao hàng không rõ tên tuổi, địa chỉ giao cho 01 Giấy phép lái xe hạng C mang tên của bị cáo, bị cáo đã trả cho nhân viên giao hàng số tiền 3.000.000đ như đã thỏa thuận trên mạng Facebook. Ban đầu bị cáo đã xác định Giấy phép lái xe bị cáo đặt mua trên mạng là giả nhưng bị cáo vẫn cất giữ Giấy phép lái xe đó với mục đích để sử dụng điều kiển phương tiện giao thông đường bộ, nếu bị kiểm tra sẽ xuất trình cho lực lượng chức năng kiểm tra. Ngày 08/02/2023, bị cáo cùng bạn là anh Đào Minh T điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 19A – X của anh T đi lên tỉnh Hà Giang để thăm người ốm. Trên đường đi bị cáo đã thay anh T điều khiển xe ô tô tham gia giao thông. Khi đi đến địa bàn thị trấn Tân Yên, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang do xe ô tô của bị cáo điều khiển chạy quá tốc độ nên bị lực lượng chức năng yêu cầu dừng xe kiểm tra, bị cáo đã xuất trình Giấy phép lái xe trước đó đặt mua trên mạng cho lực lượng chức năng kiểm tra và bị phát hiện sử dụng Giấy phép lái xe giả, không do cơ quan có thẩm quyền cấp. Trình bày Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được cải tạo tại địa phương để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về việc xem xét hành vi của bị cáo:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tr Đ đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung mà bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên đã truy tố đối với bị cáo. Ngoài lời khai nhận của bị cáo, hành vi phạm tội của Nguyễn Tr Đ còn được chứng minh bằng vật chứng thu giữ; kết luận giám định và toàn bộ các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ, do đó có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 08/02/2023, tại Km 175+800 Quốc lộ 2, thuộc tổ dân phố Tân Tr, thị trấn Tân Yên, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang; Nguyễn Tr Đ đã có hành vi sử dụng giấy phép lái xe ô tô hạng C giả điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 19A-X tham gia giao thông đường bộ.

Hành vi của bị cáo đã vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm vào trật tự quản lý hành chính và hoạt động đúng đắn, bình thường của các cơ quan Nhà nước. Bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức, biết việc để được cấp Giấy phép lái xe phải đăng ký học và tham gia thi sát hạch tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được cấp. Tuy nhiên, bị cáo không thực hiện việc đăng ký và thi sát hạch Giấy phép lái xe mà đặt mua Giấy phép lái xe trên mạng xã hội, không phải là Giấy phép lái xe do cơ quan có thẩm quyền cấp, sau đó xuất trình để đối phó với việc kiểm tra điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông của cơ quan chức năng. Hành vi trên của bị cáo Nguyễn Tr Đ đã phạm vào tội «Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức» quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Do vậy, việc Viện kiểm sát nhân huyện Hàm Yên truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội nên cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của mình để răn đe, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo sử dụng tài liệu giả không vì mục đích vụ lợi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 4 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

[2] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng đối với bị cáo để lên mức án cho phù hợp.

Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng nên không cần thiết buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam mà cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương cũng có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

[3] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Quá trình điều tra, truy tố các Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm do luật định. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, giải quyết vụ án đúng theo trình tự, thủ tục được thể hiện thông qua việc ghi chép, lập biên bản các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, thực hiện việc xét hỏi, tranh tụng đúng quy định tại các Điều 289, 306, 315, 320, 321, 322 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[4] Về vật chứng:

Quá trình điều tra cơ quan Điều tra đã trả lại 01 xe ô tô biển kiểm soát 19A-X, nhãn hiệu KIA SOLUTO màu trắng cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Đào Minh T nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

Ngoài ra, cơ quan Điều tra còn thu giữ 01 Giấy phép lái xe số 240226010X, hạng C mang tên Nguyễn Tr Đ. T liệu trên được xác định là giả nên cần tịch thu lưu hồ sơ vụ án.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo bản án:

Bị cáo Nguyễn Tr Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[6] Về các vấn đề khác:

Đối với anh Đào Minh T khi giao xe ô tô cho Nguyễn Tr Đ điều khiển không biết Đức sử dụng giấy phép lái xe ô tô giả để tham gia giao thông vì vậy không có căn cứ để xử lý về hành vi giao xe cho người không đủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật giao thông đường bộ.

Đối với trang mạng Facebook làm Giấy phép lái xe giả bán cho Nguyễn Tr Đ quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra không xác định được trang mạng và danh tính của người liên lạc với Đức nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án.

Đối với hành vi điều khiển phương tiện vi phạm tốc độ của Nguyễn Tr Đ, ngày 30/3/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Yên gửi văn bản số 116/CV-ĐTTH đến Công an huyện Hàm Yên (Đội Cảnh sát giao thông, trật tự) đề nghị xử lý vi phạm hành chính.

Do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý đối với các vấn đề trên .

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 106, 136, 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65, Điều 47 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tr Đ phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

1. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tr Đ 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 01 (Một) năm. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/5/2023).

Giao bị cáo Nguyễn Tr Đ cho Uỷ ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh Phú Thọ, nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về vật chứng:

Tịch thu, lưu hồ sơ vụ án: 01 “GIẤY PHÉP LÁI XE/ DRIVER’S LICENSE” giả số 240226010X hạng C mang tên Nguyễn Tr Đ; ngày sinh 11/01/1992. Nơi cư trú: Khu 9, X. L, H. T, T. Phú Thọ; ghi ngày cấp 17/10/2021 in dấu Sở giao thông vận tải tỉnh Phú Thọ và chữ ký “KT. GIÁM ĐỐC, PHÓ GIÁM ĐỐC, Trịnh Văn Tr”.

3. Về án phí và quyền kháng cáo:

- Bị cáo Nguyễn Tr Đ phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 38/2023/HS-ST

Số hiệu:38/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về