Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 379/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 379/2021/HS-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 30 tháng 11 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 400/2021/TLST- HS ngày 28 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:370/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 107/2021/QĐ-HS ngày 12 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Thanh S, sinh năm 1982 tại tỉnh Quảng Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: C7A/11K/2 tổ 13, ấp 3A, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ hiện nay: Số 01 Lô C đường số 7, Ấp 2, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thanh T, sinh năm 1946 và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1949; bị cáo có vợ tên Võ Thi M, sinh năm 1982 và một người con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 23/5/2021 đến nay. Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Phạm Hữu Q – Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Sài Gòn Bến Thành thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Ninh Thuận. Vắng mặt, có đơn yêu cầu vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Mạnh C, sinh năm 1997, nơi cư trú: Xóm 1, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: 434/34/19 B, Phường 28, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: Ông Đặng Phạm Hữu A, sinh năm 1998. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 7/2005, Lê Thanh S nhờ đối tượng tên T (chưa rõ thông tin nhân thân, lai lịch) làm giả 01 bằng tốt nghiệp đại học số hiệu: A 378336, cấp cho Lê Thanh S sinh năm: 1982, ngành đào tạo: Xây dựng dân dụng & Công nghiệp, đề ngày 26/7/2005 của Trường Đại học Kiến Trúc, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 25.000.000 đồng. Đến cuối năm 2014, S tiếp tục nhờ đối tượng Trường làm giả 01 chứng chỉ kỹ sư xây dựng chuyên ngành xây dựng dân dụng công nghiệp, đề ngày 05/8/2014 của Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh với giá 1.500.000 đồng, còn 01 chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ chỉ huy trưởng công trình xây dựng và 01 giấy chứng nhận huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động được học và trả phí 1.000.000 đồng. Sau khi có được bằng, chứng chỉ là giả thì S đã sử dụng làm nghề xây dựng và đã xây được 4 đến 5 ngôi nhà và nhiều công trình bất động sản ở Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Long An.

Đến khoảng 09 giờ 00 phút ngày 15/3/2021, S nhờ ông Trần Mạnh C mang 01 bằng tốt nghiệp đại học, 01 chứng chỉ kỹ sư xây dựng chuyên ngành xây dựng dân dụng công nghiệp, 01 chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ chỉ huy trưởng công trình xây dựng và 01 giấy chứng nhận huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động đều mang tên Lê Thanh S đến Văn phòng công chứng Trương Lê Nguyên Thảo, địa chỉ số 639/5 đường Mỹ Phước Tân Vạn, khu phố 4, phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương để sao y công chứng nhằm mục đích bổ sung hồ sơ xin việc tại Công ty Thương Mại 2 thuộc quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, nhân viên văn phòng công chứng là ông Đặng Phan Hữu Anh kiểm tra, nghi vấn 01 bằng đại học, các chứng chỉ là giả nên trình báo cho Công an phường An Phú tiến hành mời C và S về trụ sở làm việc.

Căn cứ Kết luận giám định số 170/GĐ-PC09 ngày 28/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: 01 (một) “Bằng tốt nghiệp đại học” số hiệu: A 378336, cấp cho “Lê Thanh S” sinh năm: 1982, ngành đào tạo: Xây dựng dân dụng & Công nghiệp, đề ngày 26/7/2005 (ký hiệu là A) là giả.

Căn cứ Kết luận giám định số 266/GĐ-PC09 ngày 24/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Hình dấu tròn có nội dung “* CỘNG HÒA X.H.C.N VIỆT NAM * THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - SỞ XÂY DỰNG” trên “Chứng chỉ hành nghề kỹ sư hoạt động xây dựng”, số chứng chỉ KS-08-08690, cấp cho “Lê Thanh S”, sinh ngày 20/9/1982, địa chỉ thường trú: 325/6 Tây Thạnh, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh, đề ngày 05/8/2014 (ký hiệu A) so với hình dấu tròn có cùng nội dung trên “Phụ lục mẫu hình con dấu của Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh”, đề ngày 25/5/2021 (ký hiệu M) không phải do cùng một con dấu đóng ra.

Cáo trạng số 398/CT-VKS-TA ngày 25/10/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Lê Thanh S về tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định như bản cáo trạng đã truy tố và xác định: Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt; về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Sáu tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam tặng Bằng khen nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Lê Thanh S từ 06 (sáu) tháng tù đến 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng.

Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 (một) bằng tốt nghiệp đại học và 01 (một) chứng chỉ nghề nghiệp kỹ sư hoạt động xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh là tài liệu giả được lưu vào hồ sơ vụ án, do đó không đề nghị xem xét xử lý.

Quá trình tố tụng, Người bào chữa cho bị cáo, Luật sư Phạm Hữu Quốc trình bày: Thống nhất tội danh và khung hình phạt theo đề nghị truy tố của Viện kiểm sát.

Về trách nhiệm hình sự Luật sư mong Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời. Bởi lẽ, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình tố tụng bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Mặt khác, bị cáo có mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Sáu tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước được được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam tặng Bằng khen là người có công với cách mạng, bị cáo có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên mong muốn Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/8/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.

Quá trình tố tụng, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội giống nội dung Viện kiểm sát truy tố, bị cáo đã ăn năn hối cải, xin được áp dụng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo có cơ hội làm người tốt cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Lê Thanh S có yêu cầu xét xử vắng mặt nộp trực tiếp cho Tòa án ngày 26/11/2021. Xét thấy, đây là yêu cầu tự nguyện của bị cáo, việc vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử phù hợp với điểm c, d khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận xét xử vắng mặt bị cáo. Người bào chữa cho bị cáo là Luật sư Phạm Hữu Q vắng mặt, có văn bản bào chữa, đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và được sự đồng ý của bị cáo nên theo quy định tại khoản 1 Điều 291 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận xét xử vắng mặt người bào chữa.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình tố tụng, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định.

[3] Quá trình tố tụng bị cáo Lê Thanh S đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo trong suốt quá trình tố tụng thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội và vật chứng thu giữ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định:

Do có nhu cầu xin việc làm nhưng không có bằng cấp nên khoảng tháng 7/2005, bị cáo Lê Thanh S nhờ đối tượng tên Trường làm giả 01 Bằng tốt nghiệp đại học số hiệu: A 378336, do Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho Lê Thanh S sinh năm: 1982, ngành đào tạo: Xây dựng dân dụng & Công nghiệp đề ngày 26/7/2005. Năm 2014, bị cáo S tiếp tục nhờ Trường làm giả 01 Chứng chỉ kỹ sư xây dựng chuyên ngành xây dựng dân dụng - công nghiệp, do Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh cấp đề ngày 05/8/2014. Ngày 15/3/2021, bị cáo nhờ ông Trần Mạnh C mang Bằng tốt nghiệp đại học và Chứng chỉ kỹ sư xây đến Văn phòng công chứng Trương Lê Nguyên Thảo để sao y công chứng thì bị phát hiện.

Kết luận giám định số 170/GĐ-PC09 ngày 28/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: 01 (một) “Bằng tốt nghiệp đại học” số hiệu: A 378336, cấp cho “Lê Thanh S” sinh năm: 1982, ngành đào tạo: Xây dựng dân dụng & Công nghiệp, đề ngày 26/7/2005 (ký hiệu là A) là giả.

Kết luận giám định số 266/GĐ-PC09 ngày 24/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Hình dấu tròn có nội dung “* CỘNG HÒA X.H.C.N VIỆT NAM * THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - SỞ XÂY DỰNG” trên “Chứng chỉ hành nghề kỹ sư hoạt động xây dựng”, số chứng chỉ KS-08-08690, cấp cho “Lê Thanh S”, sinh ngày 20/9/1982, địa chỉ thường trú: 325/6 Tây Thạnh, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh, đề ngày 05/8/2014 (ký hiệu A) so với hình dấu tròn có cùng nội dung trên “Phụ lục mẫu hình con dấu của Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh”, đề ngày 25/5/2021 (ký hiệu M) không phải do cùng một con dấu đóng ra.

Hành vi của bị cáo làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức xảy ra năm 2005 và năm 2014, đến ngày 15/3/2021 bị cáo đưa các tài liệu này đến Văn phòng công chứng Trương Lê Nguyên Thảo tại địa chỉ số 639/5 đường Mỹ Phước Tân Vạn, khu phố 4, phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương để sao y công chứng đã đủ yếu tố cấu thành tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự .

Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo Lê Thanh S về tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mức đề nghị hình phạt là phù hợp với hành vi bị cáo đã thực hiện.

[4] Lời trình bày của người bào chữa cho bị cáo S là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự quản lý hành chính của Nhà nước, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan tổ chức, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được Bằng tốt nghiệp đại học, Chứng chỉ hành nghề là do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định phù hợp với trình độ, chuyên ngành đào tạo đối với người được cấp, việc sao y công chứng phải được sao y từ bản chính tài liệu thật; bị cáo không đủ điều kiện được cấp nhưng đã đưa ra thông tin để thuê người khác làm giả giấy này và sử dụng tài liệu này để thực hiện hành vi trái pháp luật, hành vi này là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị nhưng bị cáo vẫn cố ý phạm tội. Vì vậy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội đã thực hiện căn cứ vào tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Sáu tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam tặng Bằng khen nên bị cáo được hưởng tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, có địa chỉ cư trú rõ ràng, việc phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có khả năng tự cải tạo, việc không cách ly bị cáo ra ngoài xã hội không gây nguy hiểm nên không cần cách ly bị cáo, mà áp dụng khoản 2, Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP và Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo, tạo điều kiện để bị cáo tự cải tạo, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục theo quy định pháp luật.

[7] Đối với đối tượng tên Trường là người làm giả Bằng tốt nghiệp đại học ngành đào tạo xây dựng dân dụng & Công nghiệp và Chứng chỉ nghề nghiệp kỹ sư hoạt động xây dựng cho bị cáo S, do chưa rõ thông tin nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đang tiếp tục xác minh, khi nào rõ sẽ xử lý sau.

[8] Đối với Trần Mạnh C là người được bị cáo S nhờ đi công chứng bằng đại học và chứng chỉ nhưng C không biết bằng đại học và chứng chỉ là giả nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh không xử lý hình sự đối với C là có căn cứ.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 bằng tốt nghiệp đại học và 01 chứng chỉ nghề nghiệp kỹ sư hoạt động xây dựng là tài liệu giả nên tiếp tục lưu giữ vào hồ sơ vụ án.

Đối với 01 chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ chỉ huy trưởng công trình xây dựng;

01 giấy chứng nhận huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động cấp cho Lê Thanh S, đây là tài liệu thật nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã trả lại cho bị cáo là có căn cứ.

[10] Bị cáo thực hiện hành vi làm giả vào năm 2005 và năm 2014 đến ngày 15/3/2021 mới sử dụng tài liệu giả này để thực hiện hành vi trái pháp luật nên áp dụng Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 341; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Điều 136; khoản 1, các điểm c, d khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

- Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 15/5/2018.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lê Thanh S phạm tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.

Xử phạt bị cáo Lê Thanh S 07 (bảy ) tháng tù, cho hưởng án treo thời gian thử thách là 01 (một) năm 02 (hai) tháng tính từ ngày tuyên án là ngày 30/11/2021. Giao bị cáo Lê Thanh S cho Ủy ban nhân dân xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì Ủy ban nhân dân xã Tân Kiên phải thông báo cho Cơ quan thi hành án hình sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh để tiến hành thủ tục theo quy định tại tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 hai lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bán án mới theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

631
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 379/2021/HS-ST

Số hiệu:379/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về