Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 372/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 372/2022/HS-PT NGÀY 27/05/2022 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 27 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 398/2020/TLPT-HS ngày 20 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo Đặng Thị Thanh M do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2020/HS-ST ngày 14 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

Bị cáo có kháng cáo, bị kháng nghị :

Họ và tên: Đặng Thị Thanh M (tên gọi khác: Không), sinh năm 1979 tại B; nơi đăng ký HKTT: Tổ 7, ấp 3, xã Nha Bích, huyện C, tỉnh B; tạm trú: Khu phố Phước Vĩnh, phường Phước Bình, thị xã P, tỉnh B; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn T (đã chết) và bà Phạm Thị Ngọc H, sinh năm 1935; bị cáo có chồng Đỗ Ngọc Qu, sinh năm 1981 và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2002 nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 01/8/2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Đặng Thị Thanh M: Ông Nguyễn Duy B thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).

- Người bị hại:

1. Ông Đoàn Tấn Đ, sinh năm 1981, trú tại: Tổ 14, ấp 2, xã M, huyện C, tỉnh B (vắng mặt)

2. Bà Nguyễn Thị Thúy K, sinh năm 1988, trú tại: Ấp 6, xã M, huyện C, tỉnh B (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Văn phòng Công chứng B, địa chỉ: Đường Hùng Vương, khu phố Thanh Bình, phường Tân Bình, thành phố Đ, tỉnh B; người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thanh H – Trưởng Văn phòng; người đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Trường T – Chuyên viên (vắng mặt) 

2. Văn phòng Công chứng Đỗ Mạnh C, địa chỉ: Tổ 2, ấp T, xã TL, huyện Đồng Phú, tỉnh B. (vắng mặt)

3. Văn phòng Công chứng Gia Khang, địa chỉ: Đường Nguyễn Huệ, khu phố TL, thị trấn C, huyện C, tỉnh B; người đại diện theo pháp luật bà Nguyễn Thị Hà X – Trưởng Văn phòng; người đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Tấn N – Phó Trưởng Văn phòng (vắng mặt)

4. Văn phòng Công chứng C, địa chỉ: Đường N13, khu phố TL, trung tâm hành chính huyện C, tỉnh B; người đại diện theo pháp luật ông Lê Văn N – Trưởng Văn phòng; người đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Thanh Thủy (vắng mặt)

5. Bà Tr (Tên gọi khác Ánh), sinh năm 1959, trú tại: Ấp 3, xã Tiến Hưng, thành phố Đ, tỉnh B (vắng mặt)

6. Bà Lê Thị Thu Tr1, sinh năm 1972, trú tại: Tổ 2, ấp 6, xã M, huyện C, tỉnh B (vắng mặt)

7. Ông Vũ Hữu Th, sinh năm 1976, trú tại: Ấp 2, xã Tân Thành, thành phố Đ, tỉnh B (đang đi chấp hành án trong vụ án khác)

- Người làm chứng:

1. Bà Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1995 – Là Cán bộ Văn phòng Công chứng B, địa chỉ: Tổ 6, khu phố 2, phường Tân Đồng, thành phố Đ, tỉnh B (vắng mặt)

2. Ông Đỗ Ngọc Qu, sinh năm 1981; HKTT: Khu 1, phường Thác Mơ, thị xã P, tỉnh B; Chỗ ở: Khu phố Phước Vĩnh, phường Phước Bình, thị xã P, tỉnh B (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 09/2018, do muốn có tiền tiêu xài và trả nợ, Đặng Thị Thanh M nảy sinh ý định thuê người làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) giả nhằm mục đích sử dụng làm tài sản thế chấp cho người khác vay tiền để chiếm đoạt. Thông qua truy cập mạng xã hội Facebook, M tìm và liên hệ với các địa chỉ làm giấy tờ giả thì có 01 đối tượng tên Tuấn (không rõ lai lịch) đồng ý làm GCNQSDĐ giả cho M với giá 3.000.000đ/sổ. Cũng thông qua mạng xã hội Facebook, M tìm những người đăng bán đất tại tỉnh B để lấy thông tin các thửa đất này rồi cung cấp thông tin thửa đất và thông tin cá nhân của M cho Tuấn để Tuấn làm giả GCNQSDĐ. Từ khoảng giữa tháng 09/2018 đến ngày 04/4/2019, M đã mua của Tuấn tổng cộng 06 GCNQSDĐ giả với giá 3.000.000đ/01 sổ = 18.000.000đ. Tuấn giao các GCNQSDĐ giả cho M tại khu vực gần Bưu điện phường Phước Bình, thị xã P, tỉnh B thông qua 01 thanh niên (không rõ lai lịch) mặt bịt khẩu T. M đã dùng thủ đoạn gian dối lừa đảo chiếm đoạt tiền của các bị hại là biết rõ không có đất nhưng đã đưa ra thông tin gian dối là có đất, cung cấp GCNQSDĐ giả và dẫn người giới thiệu (môi giới để được hưởng hoa hồng), M dẫn bị hại đi chỉ đất của người khác nói là của mình, các bị hại tin tưởng đây là GCNQSDĐ thật của M, từ đó đồng ý nhận thế chấp và cho M vay tiền rồi chiếm đoạt, cụ thể:

1. Chiếm đoạt tiền của anh Đoàn Tấn Đ:

- Lần 1: Mặc dù không có đất nhưng để có tiền trả nợ khoản vay 300.000.000đ từ năm 2011 của bà Tr (Ánh), SN 1959, HKTT: 135/14, Trần Văn Đấu, phường Tân Khánh, thành phố Tân An, tỉnh Long An; chỗ ở: Ấp 3, xã Tiến Hưng, thành phố Đ, tỉnh B và tiêu xài cá nhân, M đưa ra thông tin gian dối với bà T2, anh Vũ Hữu Thìn, SN 1976, HKTT: ấp Hoà Thành, xã Minh Hòa, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương và chị Lê Thị Thu Tr1, SN 1972, HKTT: Ấp 6, xã M, huyện C (là người giới thiệu người vay với người cho vay tiền để hưởng hoa hồng) tin tưởng là M có sổ đỏ và cần thế chấp vay tiền, từ đó giới thiệu M với anh Đoàn Tấn Đ, SN 1981, HKTT: Ấp 02, xã M, huyện C, tỉnh B - chủ tiệm cầm đồ “Đ Tài” tại huyện C. Anh Đ tin tưởng GCNQSDĐ giả số CD 908038 mà M đưa là thật nên đồng ý nhận thế chấp cho M vay 100.000.000đ. Sau khi Đ và M lập và ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất trên tại Văn phòng công chứng C vào ngày 17/9/2018 [Bút lục 240-241; 245; 330-332] thì Đ giữ GCNQSDĐ số CD 908038 của M rồi đưa 100.000.000đ cho T đếm. T đếm đủ tiền thì đưa cho M, M sử dụng 50.000.000đ trả cho bà T2 [Bút lục 214], bà T2 cho anh T3 10.000.000đ [Bút lục 218, 250]; M cho chị T 3.000.000đ tiền hoa hồng [Bút lục 241], còn lại 47.000.000đ tiêu xài cá nhân. Đến tháng 10/2018, M trả lãi cho Đ 9.000.000đ bằng tiền mặt.

- Lần 2: Khoảng 08 giờ ngày 12/11/2018, M tiếp tục đề nghị anh Đ đưa thêm cho M 50.000.000đ từ việc thế chấp GCNQSDĐ trên thì Đ đồng ý nhưng phải đến Văn phòng công chứng C hủy Hợp đồng thế chấp trước đó và làm Hợp đồng chuyển nhượng đối với thửa đất nêu trên cho Đ [Bút lục 330-336]; thỏa thuận miệng là nếu sau thời hạn vay 03 tháng M không trả được tiền thì Đ sẽ đi làm thủ tục sang tên cho Đ thì M đồng ý. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 12/11/2018, Đ đưa thêm cho M 50.000.000đ. M dùng 18.000.000đ trả cho Đ tiền lãi của số tiền 100.000.000đ vay lần 1, còn lại 32.000.000đ M tiêu xài cá nhân. Tổng số tiền Đ đã đưa cho M là 150.000.000đ.

Đầu tháng 01/2019, M trả 13.500.000đ tiền lãi cho Đ.

- Lần 3: Đến giữa tháng 01/2019, M tiếp tục đề nghị anh Đ đưa thêm cho M 50.000.000đ từ việc thế chấp GCNQSDĐ trên, Đ đồng ý.

Tổng số tiền 03 lần Đ đưa cho M từ nhận thế chấp GCNQSDĐ giả là 200.000.000đ. Từ ngày 15/02/2019 đến ngày 10/7/2019, M 05 lần chuyển khoản trả lãi cho Đ là 68.500.000đ. Tổng số tiền lãi M đã trả cho Đ là 109.000.000đ.

2. Chiếm đoạt tiền của chị Nguyễn Thị Thúy K:

- Lần 1: Thông qua chị T nên M biết chị Nguyễn Thị Thúy K, SN 1988, HKTT: Ấp 06, xã M, huyện C, tỉnh B có nhận thế chấp GCNQSDĐ cho vay tiền. Mặc dù không có đất nhưng khoảng 08 giờ ngày 03/12/2018, M cầm GCNQSDĐ giả số BS 386864 cùng chị T đến nhà đưa cho chị K kiểm tra. M nói GCNQSDĐ là của M, M muốn thế chấp để vay 200.000.000đ. M dẫn chị K và T đến phường Phước Bình, thị xã P xem đất, M chỉ 01 căn nhà cấp 4, bên cạnh nhà còn 01 mảnh đất chiều ngang 05m và M nói đây là nhà của M. Chị K tin tưởng là thật nên đồng ý nhận thế chấp dưới hình thức ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên và cho M vay số tiền 200.000.000đ. Sau khi hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên từ M sang K tại Văn phòng Công chứng B tại thành phố Đ [Bút lục 315-320] thì cả 03 cùng về nhà của K, M viết giấy vay tiền đưa K cùng với GCNQSDĐ trên, K đưa 200.000.000đ cho M. Sau khi nhận tiền, M dùng 24.000.000đ trả trước 04 tháng tiền lãi cho K, cho T 10.000.000đ tiền hoa hồng [Bút lục 245], trả bà T2 60.000.000đ, số tiền còn lại 96.000.000đ M tiêu xài cá nhân.

- Lần 2: Cũng với thủ đoạn tương tự, khoảng 09 giờ ngày 14/12/2018, M cầm GCNQSDĐ giả số CN 027622 cùng chị T đến nhà chị K nói muốn thế chấp vay 500.000.000đ. Chị K kiểm tra GCNQSDĐ và được M dẫn đi chỉ khu đất trồng cao su khoảng 10 năm tuổi thuộc xã Nha Bích, huyện C không biết thuộc sở hữu của ai nhưng nói là của mình làm chị K tin tưởng là thật nên đồng ý. Sau khi hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên từ M sang K tại Văn phòng công chứng Gia Khang tại huyện C [Bút lục 321-325] thì cả 3 người về nhà chị K, M viết giấy vay tiền đưa chị K giữ cùng với GCNQSDĐ trên, K đưa 500.000.000đ cho M. Sau khi nhận tiền, M dùng 37.500.000đ trả tiền lãi trước 03 tháng cho số tiền vay 500.000.000đ và 20.000.000đ bù tiền lãi suất do chị K rút tiền gửi trước kỳ hạn trong Ngân hàng ACB chi nhánh C ra đưa M vay. Số tiền 442.500.000đ còn lại M cho chị T 45.000.000đ, trong đó có 25.000.000đ tiền hoa hồng của chị T, còn lại M nhờ đưa giúp cho mẹ của M [Bút lục 246]; dùng 160.000.000đ để mua 01 thửa đất của chị Nguyễn Thị Bích Thảo, SN 1991, HKTT: khu phố 9, phường Long Phước, thị xã P có GCNQSDĐ số C0 110189 [Bút lục 309-310], còn lại M sử dụng tiêu xài cá nhân.

- Lần 3: Với thủ đoạn tương tự, khoảng 09 giờ 30 ngày 29/01/2019, M cầm GCNQSDĐ giả số BM 798699 đến nhà chị K để thế chấp vay tiền. Chị K kiểm tra, tin tưởng là thật nên đồng ý nhận thế chấp cho M vay 200.000.000đ. Sau khi hoàn tất Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên từ M sang K tại Văn phòng công chứng B [Bút lục 327-329], chị K cầm GCNQSDĐ trên và viết giấy vay tiền đưa cho M ký và đưa 200.000.000đ cho M tại nhà xe của Siêu thị CoopMart, M đưa 12.000.000đ trả tiền lãi trước 02 tháng cho chị K, còn lại 188.000.000đ M tiêu xài cá nhân;

- Lần 4: Ngày 07/01/2019, M đưa ra thông tin gian dối là Mẹ của M cho 02 mẫu đất cao su, M hỏi vay K 100.000.000đ, khi nào mẹ của M tách xong đất thì M sẽ cộng vào thế chấp sổ đất này cho K thì chị K đồng ý. K viết giấy vay tiền đưa cho M ký và đưa số tiền 100.000.000đ cho M. M đã 03 lần trả tiền lãi, mỗi tháng là 3.000.000đ, tổng cộng 9.000.000đ/03 tháng.

- Lần 5: M đưa ra thông tin gian dối là đã mua một thửa đất tại ấp 2, xã Tân Thành, thành phố Đ, sẽ thế chấp cho chị K để vay tiền bằng hình thức làm thủ tục cho K đứng tên chủ sở hữu. K không cần phải đi làm thủ tục sang tên, chỉ cung cấp thông tin sổ hộ khẩu và Giấy chứng minh nhân dân của chị K cho M để M làm thủ tục chuyển nhượng cho chị K. Chị K tin tưởng là thật nên cung cấp thông tin cho M. Sau khi có thông tin cá nhân của chị K, M gửi cho Tuấn làm GCNQSDĐ giả cho K đứng tên trên chủ sở hữu. Trong thời gian chờ GCNQSDĐ giả thì khoảng 14 giờ ngày 28/02/2019, M đến nhà chị K vay 200.000.000đ. Do tin tưởng M đang làm thủ tục chuyển nhượng GCNQSDĐ nên chị K viết giấy vay số tiền 200.000.000đ đưa cho M ký rồi đưa tiền cho M. M nhận tiền và dùng 10.000.000đ trả tiền lãi trước 02 tháng cho chị K, còn lại 190.000.000đ M tiêu xài cá nhân.

- Lần 6: Khoảng 13 giờ 30 ngày 03/4/2019, M đến đưa cho K 01 GCNQSDĐ giả số CL 613057 đứng tên K là chủ sở hữu như M thế chấp ở lần thứ 5. Đồng thời, M đưa cho K xem GCNQSDĐ giả số CD 417101 và nói muốn thế chấp GCNQSDĐ này cho chị K để vay 400.000.000đ. K kiểm tra, tin tưởng GCNQSDĐ trên là thật nên đồng ý cho vay tiền trước rồi ký hợp đồng chuyển nhượng sau, nhưng với điều kiện hợp đồng chuyển nhượng này phải ghi số tiền chuyển nhượng là 700.000.000đ, bao gồm 100.000.000đ K đưa ngày 07/01/2019;

200.000.000đ ngày 28/02/2019 và 400.000.000đ ngày 03/4/2019 thì M đồng ý. K nói M cầm GCNQSDĐ ra Văn phòng công chứng B làm sẵn hợp đồng trước, K đi rút tiền rồi ra ký sau thì M đồng ý. Khoảng 16 giờ cùng ngày, M đến Văn phòng công chứng B đưa GCNQSDĐ giả số CD 417101 cho Nhân viên của Văn phòng công chứng là chị Nguyễn Thị Thanh H, SN 1995, HKTT: tổ 06, khu phố 02, phường Tân Đồng, thành phố Đ, tỉnh B, làm thủ tục chuyển nhượng (lúc này chị K chưa đến). Khi kiểm tra GCNQSDĐ do M cung cấp, chị H nghi ngờ GCNQSDĐ trên là giả nên đã báo cáo Công chứng viên Hà Văn Đ liên hệ với Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Bù Gia Mập để kiểm tra, đối chứng số sổ CD 417101 thì phát hiện GCNQSDĐ trên đứng tên bà Nguyễn Thị Chương, SN 1962, HKTT: 79/20 Phạm Viết Chánh, phường 19, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh, nên nói dối M là GCNQSDĐ bị sai mã vạch không làm hợp đồng chuyển nhượng được. Cùng ngày, bà H đến trình báo và bàn giao GCNQSDĐ số CD 417101 cho Công an phường Tân Bình, thành phố Đ [Bút lục 01-06; 273-279]. M điện thoại cho chị K nói dối là GCNQSDĐ bị sai thông tin, chưa làm xong, 02 tuần sẽ ký hợp đồng thì K đồng ý. Ngày 04/4/2019, M đến nhà chị K viết giấy vay 400.000.000đ đưa cho chị K giữ, K giao đủ 400.000.000đ cho M.

Tổng số tiền M chiếm đoạt của chị K bằng thủ đoạn gian dối thế chấp 05 GCNQSDĐ giả là 1.600.000.000đ. Sau khi phát hiện GCNQSDĐ mà M thế chấp là giả, chị K muốn lấy lại tiền nên gọi điện cho M nói gia đình cần tiền nên gấp, nói M trả lại 400.000.000đ, không nói cho M biết việc K đã biết GCNQSDĐ giả. Cùng ngày, M đến Chi nhánh Ngân hàng Sacombank tại phường Phước Bình, thị xã P chuyển khoản trả chị K 200.000.000đ.

Ngày 07/5/2019, M và chị K ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất có GCNQSDĐ thật số CO 110189; diện tích 134,4m2; địa chỉ: thôn Bình Điền, xã Bình Sơn, huyện Phú Riềng, tỉnh B, đã được chỉnh lý T 4 đứng tên M là chủ sở hữu; thỏa thuận giá 150.000.000 tại Văn phòng Công chứng Đỗ Mạnh C [Bút lục 258-261]. Ngày 07/5/2019, chị K đến Ngân hàng ACB chi nhánh B chuyển cho M số tiền 100.000.000đ, nợ M 50.000.000đ. Quá trình điều tra và truy tố, chị K và M đều thống nhất số tiền 50.000.000đ này là số tiền M đã khắc phục một phần hậu quả cho chị K.

Chị K tiếp tục gọi điện thoại cho M yêu cầu trả tiền nhưng M không trả; Cơ quan điều tra nhiều lần triệu tập M đến làm việc nhưng M đã bỏ đi khỏi địa phương [Bút lục 280-281]. Ngày 01/8/2019, M đến Công an thành phố Đ đầu thú và khai nhận toàn bộ sự việc như trên [Bút lục 13-15].

Kết luận giám định số 40/2019/GĐ-TL ngày 02/8/2019 và Kết luận giám định số 69 ngày 05/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận 05 GCNQSDĐ Đặng Thị Thanh M sử dụng thế chấp cho Nguyễn Thị Thúy K và 01 GCNQSDĐ thế chấp cho Đoàn Tấn Đ để vay tiền là giả [Bút lục 282-287; 288-294].

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 19/2020/HSST ngày 14-7-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh B quyết định:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Thị Thanh M phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

2. Về áp dụng điều luật và hình phạt:

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Đặng Thị Thanh M 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a, b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Đặng Thị Thanh M 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự: Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam là ngày 01/8/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo của đương sự theo quy định pháp luật.

Ngày 23/7/2020, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 10 tháng 8 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh có quyết định kháng nghị toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm và đề nghị hủy bản án.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đề nghị chấp nhận kháng nghị, không chấp nhận kháng cáo và hủy bản án sơ thẩm bán án hình sự sơ thẩm số 19/2020/HS-ST ngày 14/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Bị cáo Đặng Thị Thanh M bị tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 và 03 (ba) năm tù về tội: “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức, tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm a, b khoản 3 Điều 341 của Bộ Luật hình sự 2015.

Ngày 23/7/2020 bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 10 tháng 8 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm và đề nghị hủy bản án với lý do: bản án sơ thẩm tuyên hình phạt 03 năm tù nhưng gộp chung cho hai tội là tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là vi phạm nghiêm trọng việc áp dụng pháp luật, trái với quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015: “Khi xét xử cùng 01 lần với một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định”.

[1] Nội dung vụ án: Do muốn có tiền tiêu xài cá nhân và trả nợ, trong khoảng thời gian từ giữa tháng 9/2018 đến ngày 04/4/2019, bị cáo Đặng Thị Thanh M đã nhiều lần lên mạng xã hội Facebook liên hệ, thuê đối tượng tên Tuấn (không rõ nhận thân, lai lịch) làm 06 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả. Bị cáo M đã dùng thủ đoạn gian dối sử dụng 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để thế chấp dưới hình thức ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và dẫn đi chỉ thửa đất của người khác nói là đất của mình làm cho các bị hại tin tưởng, từ đó chiếm đoạt của Đoàn Tấn Đ số tiền 200.000.000 đồng; thế chấp 05 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Thúy K số tiền 1.600.000.000 đồng. Tổng số tiền chiếm đoạt của bị hại Đ và K là 1.800.000.000 đồng.

Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2020/HS-ST ngày 14 tháng 7 năm 2020 quyết định về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Đặng Thị Thanh M như sau: Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 50, Điều 38 BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo Đặng Thị Thanh M 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm a,b khoản 3 Điều 341, xử phạt bị cáo 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luâth hình sự 2015, tổng hợp hình phạt chung cho 02 tội là 15 (mười lăm) năm tù.

[2] Nhận định của Hội đồng xét xử: Xét thấy hành vi của bị cáo M đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 mà cấp sơ thẩm đã xét xử là đúng người, đúng tội. Riêng đối với tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” đây là hai tội danh ghép được quy định trong cùng một điều luật. Trong vụ án này, bị cáo M đã có hành vi sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bằng thủ đoạn thuê đối tượng tên Tuấn làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Do đó hành vi của bị cáo M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Lẽ ra cấp sơ thẩm chỉ tuyên phạt bị cáo M tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” mới đúng với hành vi và tính chất của vụ án. Việc cấp sơ thẩm tuyên chung điều luật 341 bao gồm cả hai tội danh là “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; và tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là không đúng có sai sót nên cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm. Việc sai sót này cấp phúc thẩm khắc phục được cho nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận một phần kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao, sửa bản án hình sự sơ thẩm và tuyên bố bị cáo M phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” mà không cần thiết phải hủy án hình sự sơ thẩm như kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.

[3] Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy khi lượng hình ngoài tình tiết tăng nặng thì cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo và xử phạt bị cáo 15 năm tù là tương xứng với tính chất, hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra. Do đó, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

[4] Tại phiên tòa ngày hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát cấp cao đề nghị chấp nhận kháng nghị hủy bản án hình sự sơ thẩm số 19/2020/HS-ST ngày 14/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh B, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận một phần kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355, điểm đ khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Thị Thanh M;

Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 19/2020/HS-ST ngày 14/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

Tuyên bố bị cáo Đặng Thị Thanh M phạm tội “Lừa đảo, chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 50, Điều 38 BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo Đặng Thị Thanh M 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341, xử phạt bị cáo 03 (ba) năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự 2015, tổng hợp hình phạt chung cho 02 tội là 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 01/8/2019.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Đặng Thị Thanh M để đảm bảo thi hành án.

2. Bị cáo Đặng Thị Thanh M phải chịu 200.000 đ tiền án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

66
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 372/2022/HS-PT

Số hiệu:372/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về