TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 36/2023/HS-ST NGÀY 31/07/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 31 tháng 7 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm; Trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, thành phố H và điểm cầu thành phần: Phòng xét xử trực tuyến của trại tạm giam Công an thành phố H, Tòa án nhân dân huyện A, thành phố H xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 32/2023/HSST ngày 04 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 129/2023/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:
Phạm Văn S, sinh ngày 03 tháng 7 năm 1977; tại H. Nơi đăng ký HKTT và nơi ở: Thôn D, xã T, huyện A, H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Phạm Văn S và bà Vũ Thị T (đều đã chết); có vợ là Ngô Thị Q (đã ly hôn) không có con; tiền sự: Không; tiền án: Có 01 tiền án chưa được xoá: Bản án số 32/2020/HS-ST ngày 23/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện A, xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội Đánh bạc; bị bắt truy nã, tạm giữ từ ngày 14/3/2023, ngày 15/3/2023 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an thành phố H. Có mặt.
- Người tham gia tố tụng khác:
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ và Sản xuất V; địa chỉ: Lô 14 khu H, thị trấn A, huyện A, H; người đại diện theo pháp luật: Bà Vũ Thị Anh D – Giám đốc; người đại diện theo uỷ quyền; Ông Nguyễn Văn N– phó Giám đốc (giấy uỷ quyền số 2104/GUQ ngày 21/4/2022). Có mặt
2. Anh Vũ Văn T, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn C, xã Q, huyện A, H. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng cuối năm 2021, do có nhu cầu tìm việc làm nên S đã lên mạng xã hội Facebook đặt mua Giấy phép lái xe ô tô hạng B2 của một người không quen biết với giá 4.500.000 đồng. S cung cấp thông tin và ảnh chụp chân dung của mình cho người nhận làm giả giấy tờ trên. Khoảng 10 ngày sau thì nhận được Giấy phép lái xe hạng B2 số 31021900xxxx từ một người shipper, đồng thời thanh toán tiền theo thỏa thuận. Sau đó S đã sử dụng Giấy phép lái xe trên để ký hợp đồng lao động số 561/HĐLX với Công ty TNHH thương mại dịch vụ & sản xuất Vi Cường (sau đây gọi tắt là Công ty V) ngày 18/01/2022. Theo hợp đồng S làm lái xe Taxi cho Công ty V từ ngày 18/01/2022 đến ngày 18/01/2023. Công ty V đã giao xe Taxi nhãn hiệu TOYOTA VIOS màu đen, BKS:15A-xxxx cho S để khai thác kinh doanh.
Ngày 31/01/2022, S điều khiển xe Taxi BKS:15A-xxxx gây tai nạn giao thông tại thôn C, xã Q, huyện A, hậu quả chiếc xe trên bị hư hỏng. Quá trình giải quyết vụ tai nạn trên S đã giao nộp giấy phép lái xe hạng B2 số 31021900xxxx do Sở Giao thông vận tải thành phố H, cấp ngày 30/12/2021 mang tên Phạm Văn S cho đội Cảnh sát giao thông trật tự Công an huyện A. Sau khi giải quyết xong vụ tai nạn, Công ty V mang chiếc xe BKS: 15A-xxxx đến sửa chữa tại Công ty cổ phần ô tô Hồng Đức ở số 363 Nguyễn Văn Linh, phường Kênh Dương, quận Lê Chân hết 108.237.000 đồng.
Do có tham gia bảo hiểm vật chất của Công ty bảo hiểm Bưu điện H nên sau khi sửa xe xong, Công ty V đã có yêu cầu Công ty bảo hiểm chi trả số tiền sửa chữa nhưng Công ty bảo hiểm Bưu điện H không tiến hành giải quyết bồi thường vụ tai nạn trên với lý do: Sở giao thông vận tải H không cấp giấy phép lái xe hạng B2, số 31021900xxxx cấp ngày 30/12/2021 cho Phạm Văn S.
Ngày 21/4/2022, Công ty V đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện A làm rõ việc Phạm Văn S sử dụng giấy tờ giả gây thiệt hại nghiêm trọng cho Công ty.
Cơ quan điều tra đã tiến hành trưng cầu giám định giấy phép lái xe hạng B2 số 31021900xxxx ngày 30/12/2021 của Phạm Văn S. Tại bản giám định số 88/KL- KTHS(TL) ngày 24/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố H kết luận: “01 Giấy phép lái xe/ Driver’s License; Số/No: 31021900xxxx; Họ tên: Phạm Văn S; Ngày sinh: 03/7/1977; Quốc tịch: Việt Nam; Nơi cư trú: X.Tân Viên, H.A, TP.H; Hạng/Class: B2 ghi ngày 30/12/2021 là giả”.
Công văn số 2171/SGTVT-QLPT&NL ngày 01/7/2022 của Sở giao thông vận tải thành phố H trả lời: “Sở giao thông Vận tải H không cấp giấy phép lái xe ô tô hạng B2, Số 31021900xxxx, cấp ngày 30/12/2021, cho Phạm Văn S, sinh ngày 03/7/1977, Nơi cư trú: Tân Viên, A”.
Bản kết luận định giá tài sản số: 18/KL-ĐG ngày 02/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự kết luận thiệt hại của xe ô tô BKS:15A- xxxx “Tổng thiệt hại của tài sản là 48.980.000 đồng”.
Quá trình điều tra, xác minh, Phạm Văn S bỏ trốn khỏi địa phương, Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh truy nã, đến ngày 14/3/2023 S bị bắt.
Về vật chứng của vụ án: Giấy phép lái xe hạng B2, số 31021900xxxx cấp ngày 30/12/2021, mang tên Phạm Văn S chuyển cùng hồ sơ vụ án.
Về trách nhiệm dân sự: Công ty V yêu cầu S bồi thường 143.000.000 đồng (bao gồm: 110.000.000 đồng tiền sửa chữa xe và 33.000.000 đồng tiền phí lưu giữ xe tại bãi, tiền lợi nhuận của xe trong thời gian bị giữ tại bãi không hoạt động). Hiện S chưa bồi thường.
Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 03 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A, thành phố H đã truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 341; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn S từ 15 đến 18 tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo; buộc bị cáo phải bồi thường cho Công ty V số tiền thiệt hại là 41.780.000 đồng; đề nghị các vấn đề xử lý vật chứng, án phí hình sự, dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo đối với bị cáo, người liên quan.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng [1] Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng với quy định của pháp luật.
- Về tội danh đối với hành vi của bị cáo:
[2] Lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với bản kết luận giám định, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Cuối năm 2021, S lên mạng xã hội Facebook đặt mua Giấy phép lái xe ô tô hạng B2 của một người không quen biết với giá 4.500.000 đồng, sau đó sử dụng giấy phép lãi xe này để ký hợp đồng lao động lái xe taxi với Công ty V và gây tai nạn. Giấy phép lái xe mà S sử dụng qua giám định là giấy phép lái xe giả Do vậy Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận Phạm Văn S đã phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự - Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý hành chính của cơ quan nhà nước.
- Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[4] Bị cáo có 01 tiền án chưa được xoá là bản án số 32/2020/HS-ST ngày 23/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện A, xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội Đánh bạc. Do vậy lần phạm tội này bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5] Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo từng có thời gian đi nghĩa vụ quân sự từ tháng 3/1997 đến tháng 02/2000 do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Về hình phạt chính và hình phạt bổ sung:
[7] Căn cứ tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ Hội đồng xét xử xét thấy mức án Viện Kiểm sát nhân dân huyện A đề nghị xử phạt đối với bị cáo là phù hợp, cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, bắt bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[8] Ngoài hình phạt chính thì bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 4 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Xét bị cáo hiện không có thu nhập, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về trách nhiệm dân sự:
[9] Phạm Văn S sử dụng bằng lái xe giả, điều khiển xe ô tô của Công ty V đâm vào cổng nhà anh Vũ Văn T gây hỏng cổng (giá trị thiệt hại xác định là 1.800.000 đồng) và hỏng xe (theo kết luận định giá định giá trong Tố tụng hình sự xác định giá trị thiệt hại là 48.980.000 đồng). Anh Trung không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét. Công ty V yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền sửa chữa xe là 110.000.000 đồng nhưng không đưa ra được tài liệu, chứng cứ hợp pháp để chứng minh cho yêu cầu của mình. Kết luận định giá thiệt hại của Hội đồng định giá trong Tố tụng Hình sự là 48.980.000 đồng. Tại phiên toà, Công ty V thừa nhận còn giữ của bị cáo số tiền 7,2 triệu nên Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải bồi thường cho Công ty V số tiền là 48.980.000 đồng – 7.200.0000 đồng = 41.780.000 đồng.
- Về xử lý vật chứng:
[10] Giấy phép lái xe giả hạng B2, số 31021900xxxx cấp ngày 30/12/2021, mang tên Phạm Văn S được niêm phong trong phong bì thư có dấu giáp lai và số 88/PC09 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố hải Phòng, chuyển cùng hồ sơ vụ án nên tiếp tục được lưu giữ trong hồ sơ.
- Về các vấn đề khác:
[11] Phạm Văn S sử dụng bằng lái xe giả, điều khiển xe ô tô của Công ty V đâm vào cổng nhà anh Vũ Văn T gây hỏng cổng (giá trị thiệt hại xác định là 1.800.000 đồng) và hỏng xe (theo kết luận định giá định giá trong Tố tụng hình sự xác định giá trị thiệt hại là 48.980.000 đồng) nên cơ quan Điều tra không xử lý bị cáo về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là đúng quy định.
Hội đồng xét xử không xem xét.
[12] Công ty V còn yêu cầu bị cáo S bồi thường số tiền 33.000.000 đồng tiền phí lưu giữ xe tại bãi và tiền lợi nhuận từ hoạt động của xe sẽ làm ra được nếu không bị giữ tại bãi không hoạt động. Tại phiên toà Công ty V chưa cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh nên Hội đồng xét xử tách ra, dành quyền khởi kiện cho Công ty V trong vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu.
- Về án phí:
[11] Bị cáo phải nộp án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Công ty V phải nộp án phí về phần yêu cầu bồi thường dân sự không được chấp nhận là số tiền 110.000.000 đồng - 48.980.000 đồng = 61.020.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 341; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Căn cứ khoản 2 Điều 468, Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 588 và Điều 589 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23; khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Xử phạt bị cáo Phạm Văn S 18 (mười tám) tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 14 tháng 3 năm 2023.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
2. Về trách nhiệm dân sự:
Buộc bị cáo Phạm Văn S phải bồi thường cho Công ty TNHH thương mại dịch vụ & sản xuất Vi Cường số tiền 41.780.000đ (Bốn mươi mốt nghìn bảy trăm tám mươi nghìn đồng) Kể từ ngày Công ty TNHH thương mại dịch vụ & sản xuất Vi Cường có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Phạm Văn S chưa trả cho Công ty TNHH thương mại dịch vụ & sản xuất Vi Cường số tiền trên thi hàng tháng bị cáo S còn phải trả tiền lãi theo lãi suất quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự cho đến khi trả xong.
3. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn S phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm và 2.089.000đ (hai triệu không trăm tám mươi chín nghìn đồng) án phí Dân sự sơ thẩm. Công ty V phải nộp 3.051.000 (ba triệu không trăm năm mươi mốt nghìn đồng) án phí Dân sự sơ thẩm 4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Công ty TNHH thương mại dịch vụ & sản xuất Vi Cường và anh Vũ Văn T có quyền kháng cáo về vấn đề bồi thường dân sự trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7A và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 36/2023/HS-ST
Số hiệu: | 36/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về