TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 200/2023/HS-ST NGÀY 29/12/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 29 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân TP Q, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 164/2023/TLST-HS ngày 05.10.2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 185/2023/QĐXXST-HS ngày 10.10.2023, các Quyết định hoãn phiên toà số 120/2023/HSST-QĐHPT ngày 24.10.2023, số 125/2023/HSST-QĐHPT ngày 07.11.2023 và số 137/2023/HSST-QĐHPT ngày 30.11.2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: TRƯƠNG THỊ H, giới tính: Nữ; sinh ngày 05.01.1985 tại T, Đ; nơi cư trú: Thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 5/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Tr Thanh Đ, sinh năm: 1956 và bà: Nguyễn Thị G, sinh năm: 1960; chồng: Trần Văn H, sinh năm: 1983, có 01 con sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Anh Trần Văn H, sinh năm 1983; Trú tại: Thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Đ (vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
Ông Huỳnh Đức V, sinh năm 1956; Trú tại: P, TT Tiên K, huyện P, tỉnh Quảng Nam (vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng cuối tháng 9/2022, Tr Thị H biết chồng là Trần Văn H (sinh năm 1983, trú: thôn H, xã T, huyện T, Đ) có nhu cầu xuất cảnh sang nước Lào làm việc. Ngày 30/9/2022, Tr Thị H cùng anh H đến Phòng Quản lý xuất nhập cảnh – Công an tỉnh Đ làm hộ chiếu cho anh H nhưng không làm được vì chứng minh nhân dân của anh H không có ngày sinh, tháng sinh. Ngày 01/10/2022, anh H đến Công an huyện T làm căn cước công dân gắn chip điện tử và được hẹn khoảng 02 tháng sau sẽ được cấp căn cước. Sau đó, anh H đi hái cà phê thuê ở tỉnh Gia Lai (không rõ địa chỉ). Do sợ chồng xuất cảnh sang Lào muộn sẽ mất cơ hội có việc làm với mức lương cao nên Tr Thị H sử dụng tài khoản mạng xã hội Facebook tên “H Tr” liên hệ với tài khoản Facebook tên “Minh Khai PCCC” (không rõ chủ sở hữu) hỏi đặt mua căn cước công dân giả và được tài khoản Facebook này hướng dẫn liên hệ với tài khoản Zalo tên “Q” thông qua số điện thoại 079933xxxx (không rõ chủ sở hữu). Tr Thị H sử dụng tài khoản Zalo tên “H Tr” do H đăng ký bằng số điện thoại 0372207541 để liên lạc với tài khoản Zalo “Q” thì được biết căn cước công dân làm 05 ngày sẽ nhận được với giá 1.200.000 đồng và yêu cầu Tr Thị H gửi hình ảnh chụp 02 mặt chứng minh nhân dân, thông báo định danh cá nhân, ảnh thẻ để làm căn cước. Tr Thị H đồng ý và làm theo hướng dẫn gửi hình ảnh chụp 02 mặt chứng minh nhân dân, thông báo định danh cá nhân, ảnh thẻ của Trần Văn H cho tài khoản Zalo “Q”. Đến khoảng 16 giờ 00 phút ngày 16/10/2022, 01 nhân viên công ty giao hàng nhanh (không rõ nhân thân, lai lịch) dùng số điện thoại 034264xxxx đến giao gói hàng và thu số tiền 1.200.000 đồng, H nhận và mở ra kiểm tra gói hàng thấy bên trong có 01 căn cước công dân số 05208300xxxx, mang tên Trần Văn H, ngày sinh:
01/01/1983, quê quán: T, huyện T, Đ; nơi thường trú: T, huyện T, Đ; cấp ngày 20/03/2022; Cơ quan cấp: Cục cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội mà H đã đặt làm trước đó. Sau khi nhận được căn cước công dân giả, Tr Thị H điện thoại cho Trần Văn H (không còn lưu số điện thoại này) để nói H về đi làm hộ chiếu do đã nhận được căn cước công dân làm trước đó tại Công an huyện T. Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 17/10/2022, Trần Văn H từ tỉnh Gia Lai về đến nhà ở xã T – huyện T rồi cùng Tr Thị H đến Phòng Quản lý xuất nhập cảnh – Công an tỉnh Đ. Khi đến nơi, H đưa căn cước công dân giả mua trên mạng từ trong túi xách mang theo đưa H vào làm hồ sơ đề nghị cấp hộ chiếu. Quá trình tiếp nhận hồ sơ, cán bộ Phòng Quản lý xuất nhập cảnh – Công an tỉnh Đ phát hiện nghi vấn là căn cước công dân giả nên đã thu giữ, niêm phong căn cước công dân mà Trần Văn H sử dụng, phối hợp Phòng An ninh điều tra – Công an tỉnh Đ xác minh chuyển Cơ quan CSĐT Công an TP. Q xử lý theo thẩm quyền.
Ngày 12/01/2023, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đ ban hành Kết luận giám định số 20/KL-KTHS: 01 căn cước công dân số 05208300xxxx, mang tên Trần Văn H, ngày sinh: 01/01/1983, quê quán: T, huyện T, tỉnh Đ; nơi thường trú: T, huyện T, tỉnh Đ; cấp ngày 20/03/2022; Cơ quan cấp: Cục cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội là giả.
Về vật chứng: Cơ quan CSĐT Công an TP. Q đã tạm giữ:
+ 01 căn cước công dân số 05208300xxxx, mang tên Trần Văn H, ngày sinh: 01/01/1983, quê quán: xã T, huyện T, tỉnh Đ; nơi thường trú: xã T, huyện T, tỉnh Đ; cấp ngày 20/03/2022; Cơ quan cấp: Cục cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội.
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S, có kiểu máy: CPH1803, số Imei 1: 861570044887750, số Imei 2: 861570044887743, số sê ri: DDAF 2402, đã qua sử dụng.
Về phần dân sự: không Tại bản cáo trạng số 111/CT-VKSQN ngày 26/6/2023 Viện kiểm sát nhân dân TP. Q truy tố bị cáo Tr Thị H về tội: “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Tr Thị H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Tr Thị H theo Cáo trạng.
Bị cáo Tr Thị H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng có nơi cư trú rõ ràng nên không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội. Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Tr Thị H từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, có ấn định thời gian thử thách.
Bị cáo tự bào chữa: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không bào chữa. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo Tr Thị H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, lời khai của các bị cáo phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:
Do chồng của bị cáo là anh Trần Văn H cần có căn cước công dân để làm hồ sơ đề nghị cấp hộ chiếu xuất cảnh sang nước Lào làm việc với mức lương cao nên bị cáo Tr Thị H đã có hành vi đặt làm giả căn cước công dân trên mạng xã hội. Khi nhận được căn cước công dân giả, ngày 17/10/2022 bị cáo cùng với anh Trần Văn H đi đến Phòng Quản lý xuất nhập cảnh – Công an tỉnh Đ, tại đây bị cáo đã đưa căn cước công dân giả cho anh H để vào làm hồ sơ đề nghị cấp hộ chiếu thì bị phát hiện. Bị cáo Tr Thị H là người có đầy đủ sức khỏe, năng lực để nhận thức và điều khiển hành vi của mình nên bị cáo phải biết rõ việc sử dụng tài liệu, giấy tờ giả là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn qua mặt các cơ quan chức năng trong việc quản lý hành chính bị cáo thực hiện. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân TP. Q truy tố bị cáo Tr Thị H về tội: “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ Luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[3] Hành vi do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính Nhà nước, sự hoạt động đúng đắn, bình thường và uy tín của cơ quan Nhà nước trong quản lý hành chính, nên cần phải xử phạt nghiêm, tương xứng với hành vi do bị cáo gây ra.
[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo:
4.1 Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.
4.2 Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
4.3 Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự .
Bị cáo Tr Thị Hoa H có nhiều tình tiết giảm nhẹ; có nơi cư trú rõ ràng, trong suốt quá trình tại ngoại, bị cáo chấp hành tốt các yêu cầu của cơ quan tố tụng, thể hiện việc bị cáo có khả năng tự cải tạo bản thân. HĐXX xét thấy không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt tù có điều kiện, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát giáo dục cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 341 BLHS, bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Tuy nhiên xem xét tính chất của vụ án và hoàn cảnh của các bị cáo khó khăn không có thu nhập ổn định, nên HĐXX miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[6] Xử lý vật chứng:
Cơ quan điều tra thu giữ: 01 căn cước công dân số 05208300xxxx, mang tên Trần Văn H, ngày sinh: 01/01/1983, quê quán: xã T, huyện T, tỉnh Đ; nơi thường trú: xã T, huyện T, tỉnh Đ; cấp ngày 20/03/2022; Cơ quan cấp: Cục cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S, có kiểu máy: CPH1803, số Imei 1: 861570044887750, số Imei 2: 861570044887743, số sê ri: DDAF 2402, đã qua sử dụng.
Xét thấy: 01 căn cước công dân số 05208300xxxx, mang tên Trần Văn H, ngày sinh: 01/01/1983; quê quán: xã T, huyện T, tỉnh Đ; Nơi thường trú: xã T, huyện T, tỉnh Đ; cấp ngày 20/03/2022; Cơ quan cấp: Cục cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội đây là vật chứng có trong hồ sơ vụ án nên HĐXX xét thấy cần tịch thu lưu kèm hồ sơ vụ án.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S, có kiểu máy: CPH1803, số Imei 1: 861570044887750, số Imei 2: 861570044887743, số sê ri: DDAF 2402, đã qua sử dụng là công cụ phạm tội có giá trị kinh tế nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án về tội“Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[8] Vấn đề khác: Đối với Trần Văn H không biết việc Tr Thị H đặt làm căn cước công dân giả trên mạng và không biết căn cước công dân do H đưa cho H để làm hồ sơ đề nghị cấp hộ chiếu là giả nên không phạm tội.
Đối với người sử dụng số điện thoại 079933xxxx để nhận làm giả căn cước công dân cho Hoa, cơ quan CSĐT công an thành phố Q đã xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.
Đối với nhân viên giao hàng nhanh sử dụng số điện thoại 0342644xxxx, cơ quan CSĐT công an thành phố Q đã yêu cầu Viettel tỉnh Đ cung cấp thông tin chủ số thuê bao nhưng đến nay chưa có kết quả nên cơ quan CSĐT công an thành phố Q tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau .
[9] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, tỉnh Đ đề nghị phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 341, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Tr Thị H phạm tội: “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
2. Về hình phạt:
2.1 Xử phạt bị cáo Tr Thị H 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Tr Thị H cho UBND xã T, huyện T, tỉnh Đ giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Người được hưởng án treo có thể bị Tòa án buộc chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo nếu đang trong thời gian thử thách mà cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại điều 87 của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên.
3. Xử lý vật chứng:
3.1 Lưu Vào hồ sơ vụ án: 01 căn cước công dân số 05208300xxxx, mang tên Trần Văn Hùng, ngày sinh: 01/01/1983; quê quán: xã T, huyện T, tỉnh Đ; Nơi thường trú: xã T, huyện T, tỉnh Đ; cấp ngày 20/03/2022; Cơ quan cấp: Cục cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội 3.2 Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S, có kiểu máy: CPH1803, số Imei 1: 861570044887750, số Imei 2:
861570044887743, số sê ri: DDAF 2402, đã qua sử dụng.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05 tháng 07 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự TP. Q).
4. Án phí: Bị cáo Tr Thị H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 200/2023/HS-ST
Số hiệu: | 200/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về