TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 162/2023/HS-ST NGÀY 28/11/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 28 tháng 11 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 148/2023/TLST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 675/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm đối với bị cáo:
Đặng Thanh T, sinh năm 1987 tại Hải Phòng; Nơi cư trú: Xóm I, xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Khắc D và bà Bùi Thị T1, có vợ là Nguyễn Thị Q và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú 26/5/2023; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 13/4/2022 Đặng Thanh T mang xe ô tô nhãn hiệu Mazda 3, màu đỏ, biển số: 15A-559xx là tài sản thuộc sở hữu của T đến cầm cố xe cho cửa hàng F tại số A L, Cầu Đ, Ngô Q1, Hải Phòng lấy số tiền 350.000.000 đồng. Khi làm thủ tục cho vay, cửa hàng F đã giữ lại 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số: 15A-559xx mang tên Đặng Thanh T, địa chỉ: Thôn I, xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng, biển số đăng ký 15A-559xx (bản chính) còn xe ô tô biển số: 15A- 559xx giao cho T sử dụng.
Khoảng 02 đến 03 ngày sau T lên mạng xã hội thuê một người (không rõ lai lịch) làm giả 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số: 15A-559xx với giá 1.100.000 đồng, mục đích để T sử dụng khi điều khiển xe ô tô tham gia giao thông. Tùng gửi ảnh chụp hai mặt giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số: 15A-559xx cho người nhận làm giả giấy tờ trên mạng qua tài khoản Zalo. Khoảng 01 tuần sau có nhân viên chuyển phát giao bưu phẩm bên trong có giấy tờ giả đến nhà T và T trả tiền trực tiếp cho nhân viên chuyển phát. Sau đó T cất giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số: 15A-559xx (bản giả) trên xe ô tô biển số: 15A-559xx để sử dụng khi tham gia giao thông.
Do cần tiền để làm ăn, ngày 09/5/2022, T được anh Nguyễn Anh C, sinh năm: 1987, trú tại: số B H, phường H, quận L giới thiệu đến bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1963, trú tại: số B H, phường H, quận L (là cô ruột của C) để vay 300.000.000 đồng và để lại xe ô tô biển số: 15A-559xx để làm tin. Sau khi viết giấy vay tiền và nhận 300.000.000 đồng của bà L, T đã giao xe ô tô biển số: 15A- 559xx, 01 chìa khóa xe, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số 15A-559xx (bản giả), 01 giấy chứng nhận kiểm định và 02 giấy bảo hiểm của xe ô tô biển số 15A-559xx cho bà L. Thực tế số tiền 300.000.000 đồng mà bà L cho T vay là của anh C đưa cho bà L, do anh C và T là bạn thân nên anh C nhờ bà L đứng ra cho T vay để thuận lợi khi hai bên giao dịch. Xe ô tô, chìa khóa cùng giấy tờ do C quản lý. Trong thời gian cầm xe thì thỉnh thoảng T vẫn mượn anh C xe để đi rồi lại mang về trả cho anh C.
Ngày 27/9/2022 T mượn anh C xe ô tô trên rồi mang đến cửa hàng H số H H, phường B, quận K để làm thủ tục cầm cố lấy số tiền 396.000.000 đồng. Đại diện cửa hàng H đã cùng với T đến thanh toán trả khoản nợ T đã vay tại cửa hàng F kết thúc hợp đồng cầm cố xe ô tô tại đây và lấy lại 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô (bản thật) từ cửa hàng F, sau đó cửa hàng H giữ đăng ký xe còn xe thì giao lại cho T, T mang xe về trả lại cho anh C.
Ngày 09/10/2022, T mượn lại anh C xe ô tô trên cùng giấy tờ để vay vốn tại Ngân hàng nhưng không được. Sau đó T mang xe đến cửa hàng mua bán xe ô tô Thành Thơm số 106 L, phường C, quận N để cầm cố cho ông Ngô Quốc T2, sinh năm: 1972, trú tại: 2 Đà Nẵng, phường C, quận N lấy số tiền 510.000.000 đồng. Sau khi ký hợp đồng thì T và ông T2 đi đến cửa hàng H để thanh toán hợp đồng thế chấp xe. Ông T2 trả cho cửa hàng H số tiền 403.000.000 đồng (gồm 396.000.000 đồng tiền gốc và 7.000.000 đồng tiễn lãi) và cửa Happy M giao 01 giấy đăng ký xe ô tô biển số: 15A-559xx (bản thật) cho ông T2. Số tiền 107.000.000 đồng còn lại ông T2 chuyển cho T. Khi cầm xe ô tô cho cửa hàng T3, T giao cho ông T2 01 chìa khóa xe, 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm số 0215973 và 01 giấy chứng bảo hiểm số 0215974 của xe ô tô biển số: 15A-559xx mà trước đó T đã mượn từ anh C.
Khoảng đầu tháng 12/2022 ông T2 giao xe ô tô biển số 15A-599.xx cho khách là anh Lê Thanh Ll, sinh năm: 1990, trú tại: số D T, phường C, quận N đi thử một thời gian, nếu thấy xe tốt và muốn mua xe thì ông T2 sẽ yêu cầu T đến trao đổi để làm thủ tục bán cho anh L1. Ngày 07/01/2023 khi anh L1 điều khiển xe ô tô biển số: 15A-559xx đỗ ở đường C, quận N thì anh C nhìn thấy nên đã yêu cầu anh L1 và ông T2 đưa xe ô tô biển số: 15A-559xx về trụ sở Công an quận L đề giải quyết.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận L, ông Ngô Quốc T2 và anh Lê Thanh L1 đã giao nộp 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số: 15A-559xx mang tên Đặng Thanh T, địa chỉ: Thôn I, xã c, huyện T, thành phố Hải Phòng, biển số đăng ký 15A-559xx (Ký hiệu A1), 01 chìa khóa xe, 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm số 0215973 và 01 giấy chứng bảo hiểm số 0215974 của xe ô tô biển số: 15A-559xx; Anh C giao nộp 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số: 15A-559xx mang tên Đặng Thanh T, địa chỉ: Thôn I, xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng, biển số đăng ký 15A-559xx (Ký hiệu A2) Tại Kết luận giám định số 37/KLGĐ-PC09 ngày 22/3/2023 của Phòng K Công an thành phố H kết luận: “01 Chứng nhận đăng ký xe ô tô; Số 097320; Tên chủ xe Đặng Thanh T, địa chỉ: Thôn I, C, T, Hải Phòng; Số khung 4AA6KM023322, Số máy: P520638944. Biển số đăng ký: 15A-559xx ghi ngày 02/01/2020 đo ông Ngô Quốc T2, sinh năm 1972, ĐKTT: Số B Đà Nẵng, Cầu T, Ngô Q1, Hải Phòng giao nộp (Ký hiệu A1) là thật. 01 Chứng nhận đăng ký xe ô tô; Số 097320; Tên chủ xe Đặng Thanh T, địa chỉ: Thôn I, C, T, Hải Phòng; Số khung 4AA6KM023322, Số máy: P520638944. Biển số đăng ký: 15A-559xx ghi ngày 02/01/2020 do anh Nguyễn Anh C, sinh năm 1987, ĐKTT: Số B, H, L, Hải Phòng giao nộp (Ký hiệu A2) là giả.” Tại Cơ quan điều tra Đặng Thanh T khai nhận nội dung hành vi phạm tội như trên. Ngoài ra, T khai mục đích T vay tiền của bà L để làm ăn, hàng tháng T vẫn trả lãi cho C, T không có ý định chiếm đoạt số tiền trên; Việc T mượn xe ô tô biển số 15A-559xx, T đều xin phép và được bà L và anh C đồng ý. Đối với khoản tiền 300.000.000 đồng mà T vay của bà L, T đã trả lãi theo đúng thỏa thuận được 05 tháng. Đến tháng 10/2022, do làm ăn khó khăn nên T đã nói chuyện với bà L và anh C xin khất.
Bà Nguyễn Thị L khai nhận: số tiền 300.000.000 đồng mà bà cho T vay là của anh C nhờ bà đứng tên giúp. T trả lãi trực tiếp cho anh C hàng tháng. Việc quản lý xe và giấy tờ đều do anh C quyết định. Khoảng cuối tháng 12/2022 bà L có nghe anh C kề về việc anh C cho T mượn lại xe ô tô biển số 15A-559xx và T bán cho người khác. Bà L đã gọi điện và nhắn tin cho T để đòi tiền thì T hứa hẹn trả nhiều lần nhưng không đến trả nên bà đã trình báo sự việc đến Cơ quan Công an.
Anh Nguyễn Anh C khai nhận: số tiền 300.000.000 đồng là tiền của anh C nhưng cho T vay thông qua bà L. Hàng tháng T đều trả lãi theo thỏa thuận và C là người nhận. Mỗi lần cần đi lại anh T đều mượn xe và anh C đồng ý. Đến tháng 10/2022, khi T ngưng trả lãi, anh C đã liên lạc với T, T đều xin khất nợ nhưng chưa trả.
Tại bản Cáo trạng số 154/CT-VKSLC ngày 10/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đã truy tố bị cáo Đặng Thanh T về tội “ Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà bị cáo Đặng Thanh T khai nhận như nội dung nêu trên và khai T thường xuyên vay tiền của bà L, nhưng chưa lần nào phải đề lại tài sản đảm bảo cho việc vay nợ nên khi vay số tiền 300.000.000 đồng ngày 09/5/2022 T cũng nghĩ không phải đề lại tài sản bảo đảm. Nhưng sau khi viết giấy vay nợ và giao nhận tiền bà L mới yêu cầu đề lại tài sản và giấy tờ chứng minh tài sản của bị cáo nên bị cáo phải đưa giấy tờ giả cho bà L. T không có ý định làm giả giấy đăng ký xe đề vay tiền của bà L mà chỉ là để phòng khi tham gia giao thông nếu bị lực lượng cảnh sát giao thông kiểm tra. Việc vay tiền của bà L hàng tháng T vẫn thanh toán tiền lãi đầy đủ, khi khó khăn không có khả năng trả T đã xin khất nợ với C và bà L.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Đặng Thanh T và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 341; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 09 đến 12 tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” nhưng cho hưởng án treo, đề nghị ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo từ 18 đến 24 tháng. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận L, Điều tra viên, Viện kiềm sát nhân dân quận Lê Chân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
- Về hành vi phạm tội:
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng và phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định, các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ thể hiện: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc sử dụng tài liệu, giấy tờ giả của cơ quan, tổ chức là vi phạm pháp luật, nhưng để đáp ứng nhu cầu cá nhân nên khoảng tháng 4/2022 Đặng Thanh T đã có hành vi liên hệ với đối tượng không quen biết trên mạng Internet và cung cấp các thông tin để thuê làm giả giấy đăng ký xe ôtô số 097320 của xe ôtô mang biển số 15A-559xx đứng tên Đặng Thanh T với giá 1.100.000đ với mục đích để tham gia giao thông. Sau đó đến ngày 09/5/2022 sau khi vay bà Nguyễn Thị L số tiền 300.000.000 đồng T đã giao cho bà L 01 xe ôtô mang biển số 15A-559xx cùng 01 giấy đăng ký xe mà T đã thuê làm giả để đảm bảo cho khoản vay của mình sau đó bị phát hiện. Do vậy, hành vi bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự như tội danh và điều khoản tại cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động bình thường và uy tín của cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính về các loại tài liệu, xâm hại đến trật tự quản lý hành chính, làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo biết được hành vi làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức là vi phạm pháp luật, tuy nhiên vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Do vậy cần áp dụng mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
- Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã phân tích ở trên, vì vậy không cần thiết phải bắt cách ly khỏi xã hội mà có thể áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội như đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[7] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Đối với số tiền bị cáo vay của bà Nguyễn Thị L 300.000.000 đồng; bị cáo đã trả lại cho bà L đầy đủ, bà L không có ý kiến gì và có đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Đặng Thanh T 09 (Chín) tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” nhưng cho hưởng án treo.Thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Đặng Thanh T cho Ủy ban nhân dân xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo Điều 92 Luật Thi hành án hình sự Căn cứ điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự hủy bỏ biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với Đặng Thanh T.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án:
Bị cáo Đặng Thanh T phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 162/2023/HS-ST
Số hiệu: | 162/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về