Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 14/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 14/2024/HS-ST NGÀY 21/03/2024 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 21 tháng 3 năm 2024, Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh P mở phiên tòa trực tuyến tại 02 (hai) điểm cầu gồm: Điểm cầu trung tâm, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh P; 01 (một) điểm cầu thành phần, tại Trại tạm giam Công an tỉnh P để xét xử sơ thẩm công khaivụ án hình sự sơ thẩmthụ lý số: 11/2024/TLST-HS ngày 06 tháng02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2024/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2024 đốivới các Bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn M Đ (tên gọi khác: không);

Sinh ngày 19 tháng 7 năm 1985; tại: huyện T, tỉnh P;

Nơi cư trú: khu Tân Quang, xã Giáp Lai, huyện T, tỉnh P; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Nguyễn Đình Đ (đã chết) và bà: Nguyễn Thị X, sinh năm 1963;

Vợ: Đỗ Quỳnh Tr, sinh năm 1995; Con: Chưa có.

Tiền án; Tiền sự: Không;

Nhân thân (án tích, đã bị xử phạt vi phạm hành chính, đã xử lý kỷ luật): Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 16/10/2023, hiện đang chấp hành Quyết định tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh P. (Có mặt tại điểm cầu Trại tạm giam).

2. Họ và tên: Đỗ Quỳnh Tr (tên gọi khác: không);

Sinh ngày 29 tháng 9 năm 1995; tại: huyện T, tỉnh P;

Nơi cư trú: khu Tân Quang, xã Giáp Lai, huyện T, tỉnh P; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: lớp 12/12;

Dân tộc: Mường;Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Đỗ Văn Khoa, sinh năm 1973 và bà: Nguyễn Hồng T, sinh năm 1975;

Chồng: Nguyễn M Đ, sinh năm 1985; Con: Chưa có.

Tiền án; Tiền sự: Không;

Nhân thân (án tích, đã bị xử phạt vi phạm hành chính, đã xử lý kỷ luật): Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 16/10/2023, hiện đang chấp hành Quyết định tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh P. (Có mặt tại điểm cầu Trại tạm giam).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Trần Văn M, sinh năm 1984 (vắng mặt);

Nơi cư trú: khu 7, xã Giáp Lai, huyện T, tỉnh P;

+ Anh Trần Ngọc H, sinh năm 1989 (vắng mặt);

Nơi cư trú: khu 19/5, thị trấn T, huyện T, tỉnh P;

+ Anh Phạm Hồng Th, sinh 1990 (vắng mặt);

Nơi cư trú: khu Thống Nhất, thị trấn T, huyện T, tỉnh P.

+ Anh Đỗ Đình L, sinh năm 1980 (vắng mặt);

Nơi cư trú: khu Tân Quang, xã Giáp Lai, huyện T, tỉnh P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Về hành vi phạm tội của các Bị cáo:

Khoảng đầu tháng 01/2018, Nguyễn M Đ mua chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xám – xanh, đếnngày 04/01/2018được cấp giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy với biển kiểm soát là 19C1 - xxxxx mang tên Nguyễn M Đ. Đ đã dùng điện thoại di động của mình,chụp lại giấy Chứng nhận đăng ký của xe mô tô, để khi cần thì sử dụng.

Do cần tiền tiêu xài cá nhân, nên ngày 17/01/2018 Nguyễn M Đ đến nhà anh Đỗ Đình L để vay số tiền 32.000.000 đồng và thỏa thuận để lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xám – xanh và giấyChứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy có biển kiểm soát là 19C1 - xxxxx mang tên Nguyễn M Đđể làm tin và bảo đảm có nghĩa vụ trả nợ. Anh L đồng ý cho Đ vay 32.000.000 đồng với lãi suất là 64.000đồng/ngày, tương ứng với số tiền 2.000đồng/01 triệu/ngày, tức 1.920.000 đồng/ 01 tháng.Hai bên còn thỏa thuận, nếu Đ không trả được nợ thì Đ bán luôn cho anh L chiếc xe trên bằng với số tiền Đ vay (hai bên viết sẵn Hợp đồng mua bán). Sau đó, Đ thỏa thuận mượn anh L chiếc xe này để sử dụng.Đ đãtrả được cho anh L số tiền lãi của khoảng 04 đến 05 tháng thì không trả được nữa, nên đến khoảng tháng 5/2018 Đ đã bán chiếc xe mô tô trên cho anh L với giá 32.000.000 đồng.

Thời điểm này vợ của Đ là Đỗ Quỳnh Tr đang sử dụng chiếc xe mô tô nhãn hiệu HondaSH mode, BKS: 19C1-xxxxx cógiấy Chứng nhậnđăng ký xe ngày 05/7/2017 mang tên Đỗ Quỳnh Tr. Do vợ chồnglàm ăn thua lỗ, nợ tiền của nhiều người nên Đ đã bàn và thống nhất cùng với Tr đi thuê làm giả giấy Chứng nhậnđăng ký xe mô tô để cầm cố và vay được tiền của nhiều người để trả nợ và chi tiêu.Đ đã sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đen của Đ chụp lại hình ảnh giấy Chứng nhận đăng ký của chiếc xe mô tô mà Tr đang sử dụng. Sau đó Đ cùng Tr đến một cửa hiệu chụp ảnh, photocoppy tại thị trấn T (không xác định được địa chỉ) Đ đi vào bên trong cửa hiệu còn Tr đứng ở ngoài chờ. Đ trao đổi với chủ cửa hiệu là một người đàn ông cao khoảng 1m65, dáng người trung bình, khoảng 25 tuổi, nói giọng miền bắc về việc muốn in màu giấy đăng ký xe mô tô kích thước giống với giấy đăng ký xe mô tô gốc để không bị quên thông tin do giấy đăng ký xe mô tô gốc đã bị ướt nhòe không nhìn rõ thì người đàn ông này đồng ý. Đ đưa chiếc điện thoại di động của Đ cho chủ cửa hiệu sau đó người này kết nối điện thoại di động vào 01 (một) chiếc máy tính xách tay rồi tải hình ảnh mặt trước và mặt sau của 02 (hai) đăng ký xe về máy tính, căn chỉnh kích thước và độ sáng của hình ảnh tương đương với giấy đăng ký xe thật sau đó in 02 (hai) bức ảnh qua máy in màu bằng giấy in ảnh, sau khi in ảnh hai mặt của đăng ký thì người này dùng kéo cắt ra theo kích thước ảnh rồi dùng keo dán hai mặt của đăng ký vào nhau, sau đó ép plastic bên ngoài hoàn thành 04 (bốn) giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy in màu gồm: 02 (hai)giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số xe 19C1 - xxxxx đứng tên Nguyễn M Đ và 02 (hai) giấy Chứng nhận đăng ký xe BKS: 19C1-xxxxx đứng tên Đỗ Quỳnh Tr. Mọi thao tác trên đều do người đàn ông chủ cửa hiệu trên thực hiện. Sau khi làm xong thì Đ trả công cho người đàn ông số tiền là 40.000 đồng.

Sau khi có 04 (bốn)giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả trên, ngày 03/4/2018, Đ mang 01 (một)giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả của chiếc xe mô tô Yamaha Exciter, BKS: 19C1 - xxxxx đến nhà anh Trần Văn M cầm cố để vay số tiền 28.000.000 đồng với lãi suất 1000đồng/01 triệu/ngày. Ngày 08/4/2018, Đ tiếp tục mang 01 (một) giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả của xe mô tôYamaha Exciter, BKS: 19C1 - xxxxx đến nhà anh Trần Ngọc H cầm cố để vay số tiền là 25.000.000 đồng với lãi xuất là 50.000đồng/ngày tương đương với 2.000đồng/01 triệu/ngày. Ngày18/4/2018, Tr mang giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả của chiếc xe mô tô HondaSH mode BKS: 19C1 - xxxxx đến nhà anh Trần Ngọc H để vay số tiền 30.000.000 đồng với lãi suất 50.000 đồng/ngày, tương đương 2.000 đồng/01 triệu/ngày.Ngày 15/5/2018, Tr mang giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả của chiếc xe mô tô HondaSH mode BKS: 19C1 - xxxxx đến khu Liên Đồng, thị trấn T, huyện T gặp anh Phạm Hồng Th cầm cố cho anh Th để vay số tiền 30.000.000 đồng với lãi suất 50.000đồng/ngày, tương đương 2.000đồng/01 triệu/ngày. Khi vay tiền, Đ và Tr đều viết Giấy bán xe cho anh M, anh H, anh Th và Hợp đồng thuê xe nhưng các bên đều thừa nhận chỉ là giả tạo, che dấu cho hợp đồng vay tài sản. Sau khi vay được tiền của anh M, anh H và anh Th, Đ và Tr trả nợ và chi tiêu cá nhân hết.

Ngày 20/8/2018, anh Trần Văn M có đơn gửi đến Công an huyện T tố giác hành vi của Nguyễn M Đ và Đỗ Quỳnh Tr, đồng thời giao nộp 01 (một) giấy Chứng nhận ký xe mô tô, xe máy số 016443, trên giấy đăng ký ghi tên chủ xe Nguyễn M Đ 1985, địa chỉ: Khu 2, xã Giáp Lai, huyệnT, tỉnh P, nhãn hiệu: YAMAHA; Số loại: EXCITER; Màu xơn: Xám xanh; Dung tích: 149,8; Số máy: G3D4E588397, số khung: 0610HY563415; Biển số đăng ký: 19C1 - xxxxx; Đăng ký lần đầu ngày 04/01/2018; Giấy đăng ký có chữ ký của Trung tá Nguyễn Quang M - Phó Trưởng Công an huyện và đóng hình dấu tròn đỏ của Công an huyện T.

Ngày 21/9/2018, anh Phạm Hồng Th có đơn gửi Công an huyện T tố giác hành vi của Đỗ Quỳnh Tr, đồng thời giao nộp: 01 (một) giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 013133, trên giấy đăng ký ghi tên chủ xe Đỗ Quỳnh Tr 1995, địa chỉ: khu Đồng Phú, xã Thạch Khoán, huyện T, tỉnh P, nhãn hiệu: HONDA; Số loại: SHMODE; Màu xơn: Bạc-đen; Dung tích: 124,9; Số máy: JF51E0810061, số khung: 5130GZ203467; Biển số đăng ký: 19C1 - xxxxx; Đăng ký lần đầu ngày 11/01/2017; Giấy đăng ký có chữ ký của Trung tá Nguyễn Quang M - Phó Trưởng Công an huyện và đóng hình dấu tròn đỏ của Công an huyện T.

Ngày 30/9/2018, anh Trần Ngọc H có đơn gửi đến Công an huyện T tố giác hành vi của Nguyễn M Đ và Đỗ Quỳnh Tr, đồng thời giao nộp: 01 (một) giấy Chứng nhận ký xe mô tô, xe máy số 016443, trên giấy đăng ký ghi tên chủ xe Nguyễn M Đ 1985, địa chỉ: Khu 2, xã Giáp Lai, huyện T, tỉnh P, nhãn hiệu: YAMAHA; Số loại: EXCITER; Màu xơn: Xám xanh; Dung tích: 149,8; Số máy: G3D4E588397, số khung: 0610HY563415; Biển số đăng ký: 19C1 - xxxxx; Đăng ký lần đầu ngày 04/01/2018; Giấy đăng ký có chữ ký của Trung tá Nguyễn Quang M - Phó Trưởng Công an huyện và đóng hình dấu tròn đỏ của Công an huyện T; 01 (Một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 013133, trên giấy đăng ký ghi tên chủ xe Đỗ Quỳnh Tr 1995, địa chỉ: Đồng Phú, xã Thạch Khoán, huyện T, tỉnh P, nhãn hiệu: HONDA; Số loại: SHMODE; Màu xơn: Bạc-đen; Dung tích:

124,9; Số máy: JF51E0810061, số khung: 5130GZ203467; Biển số đăng ký: 19C1 - xxxxx; Đăng ký lần đầu ngày 11/01/2017; Giấy đăng ký có chữ ký của Trung tá Nguyễn Quang M - Phó Trưởng Công an huyện và đóng hình dấu tròn đỏ của Công an huyện T; 01 (một) Chứng minh nhân dân số 13139xxxx mang tên Nguyễn M Đ; 01 (một) Giấy chứng nhận bảo hiểm xe mô tô mang tên Nguyễn M Đ.

2. Các vấn đề khác:

Ngày 19/12/2018, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã có Quyết định trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P giám định đối với những giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mà anh Trần Văn M, Trần Ngọc H và Phạm Hồng Th giao nộp. Tại bản kết luận giám định số 114/KLGĐ-PC09 ngày 29/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P kết luận:

“+ Hình dấu tròn có nội dung “Công an huyện T” trên 04 “Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy” số 016443 và 013133 (Tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2, A3, A4) so với hình dấu có cùng nội dung trên bản “Mẫu hình dấu của Công an huyện T” (Tài liệu so sánh ký hiệu M1) không phải do cùng một con dấu đóng ra.

+ Chữ ký đứng tên Nguyễn Quang M dưới mục “P.Trưởng Công an huyện” trên 04 “Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy” số 016443 và 013133 (Tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2, A3, A4) so với chữ ký đứng tên Nguyễn Quang M trên bản “Mẫu chữ ký của ông Nguyễn Quang M - P.Trưởng Công an huyện T” (Tài liệu so sánh ký hiệu M2) không phải do cùng một người ký ra.

+ Hình dấu tên chức danh “Trung tá Nguyễn Quang M” trên 04 “Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy” số 016443 và 013133 (Tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2, A3, A4) so với hình tên chức danh có cùng nội dung bản “Mẫu chữ ký của ông Nguyễn Quang M - P.Trưởng Công an huyện T” (Tài liệu so sánh ký hiệu M2) không phải do cùng một con dấu đóng ra.” Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Kiểm sát viên, các Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định nêu trên.

Ngày 16/10/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết địnhkhởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn M Đ và Đỗ Quỳnh Tr về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức” được quy định tại khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa chữa, bổ sung năm 2017 (sau đây viết tắt là BLHS năm 2015). Ngày 27/12/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện T ra Quyết định thay đổi Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01 và các Quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can số 01,02 đối với Nguyễn M Đ và Đỗ Quỳnh Tr về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 của BLHS năm 2015. Các Quyết định trên đã được Viện kiểm sát nhân dân huyện T phê chuẩn để điều tra theo quy định.

Đối với người đàn ông đã làm giả 04 (bốn) giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy cho Bị cáo Đ và Bị cáo Tr: Cả hai Bị cáo đều khai nhận, đã thuê một người đàn ông không rõ tên, tuổi và nhân thân ở thị trấn T làm giả giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy.Người này kinh doanh chụp ảnh và photocopy, do thời gian đã lâu nên Đ và Tr không xác định được tên cửa hàng và địa chỉ của cửa hàng. Do đó, Cơ quan CSĐT không có căn cứ để làm rõ người đàn ông đã làm giả giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy đồng thời không thu giữ được những công cụ, phương tiện mà người đàn ông sử dụng để làm giấy tờ giả cho Đ và Tr. Mặt khác, Đ và Tr đều khai nhận thuê người đàn ông làm giả giấy tờ để lưu trữ thông tin, Đ và Tr không nói cho người đàn ông biết làm giả giấy tờ để đi cầm cố vay tiền do đó hành vi của người đàn ông không có căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự.

Đối với việc Nguyễn M Đ và Đỗ Quỳnh Tr vay tiền của Trần Văn M, Trần Ngọc H và Phạm Hồng Th, đây là quan hệ giao dịch dân sự, tiền lãi vay không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay; sau khi vay tiền Nguyễn M Đ và Đỗ Quỳnh Tr không sử dụng vào mục đích vi phạm pháp luật; Đ và Tr có liên hệ với anh M, H và Th để trả nợ. Quá trình điều tra, anh M, anh H, anh Th đều xác định Đ và Tr đã trả số tiền vay.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH mode BKS: 19C1-xxxxx của Tr: Do nợ nhiều người và không có tiền trả nợ, Tr đã đi làm thuê ở H Nội. Tại đây,Tr đã bán chiếc xe mô tô trên cho một người đàn ông; Tr không biết người này ở đâu, tên là gì nên cơ quan CSĐT công an huyện T không xác định được chiếc xe mô tô trên.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen Nguyễn M Đ đãsử dụng để chụp ảnh những giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy phục vụ việc làm giả: Quá trình sử dụng chiếc điện thoại này,Đ đã làm hỏng, sau đó để mất; Đ không biết mất ở đâu trong trường hợp nào, nên cơ quan CSĐT công an huyện T không thu giữ được.

3. Về trích dẫn Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Tại Bản cáo trạng số: 18/CT-VKSThS ngày 06/02/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh P đã truy tố các Bị cáoNguyễn M Đ và Đỗ Quỳnh Tr về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 2 Điều 341 của BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 4 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38 của BLHS năm 2015 đối với Nguyễn M Đ;

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 4 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 của BLHS năm 2015 đối với Đỗ Quỳnh Tr.

- Tuyên bố các Bị cáo Nguyễn M Đ và Đỗ Quỳnh Tr phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

- Xử phạt các Bị cáo Nguyễn M Đ và Đỗ Quỳnh Tr mỗi Bị cáo từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày các Bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 16/10/2023);

- Phạt bổ sung các Bị cáo Nguyễn M Đ và Đỗ Quỳnh Tr mỗi Bị cáo từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng, sung quỹ Nhà nước.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của BLHS năm 2015; Điều 105, khoản 1 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

+Tịch thu lưu hồ sơ các tài liệu, chứng cứ gồm:02 (hai) giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 016443, trên giấy đăng ký ghi tên chủ xe Nguyễn M Đ 1985, địa chỉ: Khu 2 - Giáp Lai - T - P, nhãn hiệu: YAMAHA; Số loại: EXCITER; Màu Sơn: Xám xanh; Dung tích: 149,8; Số máy: G3D4E588397, số khung: 0610HY563415; Biển số đăng ký: 19C1 - xxxxx; Đăng ký lần đầu ngày 04/01/2018; Giấy đăng ký có chữ ký của Trung tá Nguyễn Quang M - Phó Trưởng Công an huyện và đóng hình dấu tròn đỏ của Công an huyện T; 02 (hai)giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 013133, trên giấy đăng ký ghi tên chủ xe Đỗ Quỳnh Tr 1995, địa chỉ: Đồng Phú - Thạch Khoán - T - P, nhãn hiệu: HONDA; Số loại: SHMODE; Màu Sơn: Bạc-đen; Dung tích: 124,9; Số máy: JF51E0810061, số khung: 5130GZ203467; Biển số đăng ký: 19C1 - xxxxx; Đăng ký lần đầu ngày 11/01/2017; Giấy đăng ký có chữ ký của Trung tá Nguyễn Quang M - Phó Trưởng Công an huyện và đóng hình dấu tròn đỏ của Công an huyện T;

01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 13139xxxx mang tên Nguyễn M Đ và 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện mô tô, xe máy tên chủ xe Nguyễn M Đ (thời hạn bảo hiểm từ ngày 07/01/2018 đến ngày 07/01/2019).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.Buộc các Bị cáo Nguyễn M Đ và Đỗ Quỳnh Tr mỗi Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Các Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo Đ, bị cáo Tr đều xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Hnh vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, tỉnh P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa Bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh P, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Những chứng cứ xác định có tội.

Tại phiên tòa hôm nay, các Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu; thừa nhận bản Cáo trạng truy tố là đúng, không oan sai. Lời khai của các Bị cáo thống nhất, phù hợp với lời khai những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ của vụ án.

Như vậy đã xác định được: Nguyễn M Đ có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, BKS 19C1 – xxxxx có giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy đứng tên Nguyễn M Đ; vợ của Đ là Đỗ Quỳnh Tr có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH mode, BKS 19C1 – xxxxx có giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy đứng tên Đỗ Quỳnh Tr. Do làm ăn thua lỗ và nợ tiền của nhiều người nên Đ và Tr bàn nhau làm giả Giấy chứng nhận đăng ký xe để cầm cố vay tiền được nhiều người. Đ và Tr đã đến một cửa hiệu chụp ảnh, photocoppy (không nhớ chính xác địa điểm) tại thị trấn T, huyện T, tỉnh P thuêlàm giả 02 (hai) giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô BKS 19C1 – xxxxx và 02 (hai) giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô BKS 19C1 – xxxxx.

Tại bản kết luận giám định số 114/KLGĐ-PC09 ngày 29/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P kết luận:

“+ Hình dấu tròn có nội dung “Công an huyện T” trên 04 “Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy” số 016443 và 013133 (Tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2, A3, A4) so với hình dấu có cùng nội dung trên bản “Mẫu hình dấu của Công an huyện T” (Tài liệu so sánh ký hiệu M1) không phải do cùng một con dấu đóng ra.

+ Chữ ký đứng tên Nguyễn Quang M dưới mục “P.Trưởng Công an huyện” trên 04 “Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy” số 016443 và 013133 (Tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2, A3, A4) so với chữ ký đứng tên Nguyễn Quang M trên bản “Mẫu chữ ký của ông Nguyễn Quang M - P.Trưởng Công an huyện T” (Tài liệu so sánh ký hiệu M2) không phải do cùng một người ký ra.

+ Hình dấu tên chức danh “Trung tá Nguyễn Quang M” trên 04 “Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy” số 016443 và 013133 (Tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2, A3, A4) so với hình tên chức danh có cùng nội dung bản “Mẫu chữ ký của ông Nguyễn Quang M - P.Trưởng Công an huyện T” (Tài liệu so sánh ký hiệu M2) không phải do cùng một con dấu đóng ra.” Sau khi có 04 (bốn) giấyChứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả trên, ngày 03/4/2018, Đ mang 01 (một)giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả của chiếc xe mô tônhãn hiệu Yamaha Exciter BKS: 19C1 - xxxxx đến nhà anh Trần Văn M, cầm cố để vay số tiền 28.000.000đồng với lãi suất 1000đ/01 triệu/ngày. Ngày 08/4/2018, Đ mang 01 (một)giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả của xe mô tônhãn hiệu Yamaha Exciter BKS: 19C1 - xxxxxđến gặp anh Trần Ngọc Hcầm cố để vay số tiền là 25.000.000đồng với lãi xuất là 50.000đồng/ngày tương đương với 2.000đồng/01 triệu/ngày.Ngày18/4/2018, Tr mang 01 (một) giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả của chiếc xe mô tônhãn hiệu Honda SH mode BKS: 19C1 - xxxxx đến nhà anhTrần Ngọc H cầm cố để vay số tiền 30.000.000đồng với lãi suất 50.000đồng/ngày, tương đương 2.000đồng/01 triệu/ngày.Ngày15/5/2018, Tr mang 01 (một)giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả của chiếc xe mô tônhãn hiệu Honda SH mode BKS: 19C1 - xxxxx đến gặp anh Phạm Hồng Thcầm cố để vay số tiền 30.000.000 đồng với lãi suất 50.000đồng/ngày, tương đương 2.000đồng/01 triệu/ngày.Sau khi vay được tiền của anh M, anh H và anh Th, Đ vàTr cùng trả nợ và chi tiêu cá nhân hết.

Các Bị cáo thực hiện hành vi trong trạng thái tình thần bình thường, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; và nhận thức rõ hành vi sử dụng Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô giảlà trái pháp luật.

Từ các nhận định trên đã đủ cơ sở xác định, hành vi của các Bị cáoNguyễn M Đ và Đỗ Quỳnh Tr thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 của BLHS năm 2015;

Tại điểm b khoản 2 Điều 341 của BLHS năm 2015 quy định:

“1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

a)… b) Phạm tội 02 lần trở lên;”

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Tính chất của vụ án là nghiêm trọng. Hnh vi phạm tội của các Bị cáo là nguy hiểm, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước,gây hoang mang, lo lắng và bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy cần được đưa ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật để răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Trong vụ án này, có nhiều người cùng thực hiện tội phạm, tuy nhiên các Bị cáo là vợ chồng, không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và câu kết chặt chẽ trong thực hiện tội phạm nên chỉ là đồng phạm giản đơn và không coi là phạm tội có tổ chức. Tuy nhiên, xem xét về vai trò của các Bị cáo thì thấy: Bị cáo Đ là người có vai trò chính, đã khởi xướng, đề xuất với Bị cáo Tr trong việc thực hiện tội phạm. Đây là tình tiết để Hội đồng xét xử xem xét, khi quyết định hình phạt đối với Bị cáo Đ và Bị cáo Tr.

- Về nhân thân:Trước khi thực hiện hành vi phạm tội, các Bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đ và Bị cáo Tr không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào được quy định tại Điều 52 của BLHS năm 2015.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các Bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015. Ngoài ra, riêng Bị cáo Đ có bố là ông Nguyễn Đình Đ được thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng Ba, là người có công với cách mạng nên Bị cáo Đ được hưởng thêmtình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015.

Từ các nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Hnh vi phạm tội của các Bị cáo là nghiêm trọng, đã làm ảnh hưởng hoạt động bình thường của cơ quan hành chính Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Căn cứ vào nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và vai trò trong thực hiện tội phạm của các Bị cáocần áp dụng khoản 1 Điều 38 của BLHS năm 2015, xử phạt các Bị cáo hình phạt tù trên mức khởi điểm của khung hình phạt mà điều luật quy định và ở mức thấp theo đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 341 của BLHS năm 2015 thì: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Xét thấy, tại Biên bản xác minh ngày 18/12/2023 của cơ quan CSĐT Công an huyện T thì thấy, bị cáo Đ và bị cáo Tr là lao động tự do, thu nhập không ổn định, có quyền sử dụng đất nhưng là chỗ ở duy nhất của gia đình, ngoài ra không có tài sản gì có giá trị. Vì vậy, cần miễn hình phạt bổ sung đối với các Bị cáo là phù hợp.

[4]. Về trách nhiệm dân sự:

Anh M, anh Th, anh H đều xác định đã được Bị cáo Đ, Bị cáo Tr trả số tiền đã vay vàkhông yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về trách nhiệm dân sự đối với các Bị cáo trong vụ án này, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5].Đối với người đàn ông đã làm giả 04 (bốn) giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy cho Bị cáo Đ và Bị cáo Tr: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các Bị cáo đều khai nhận, đã thuê một người đàn ông không rõ tên, tuổi và nhân thân ở thị trấn T làm giả giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy.Người này kinh doanh chụp ảnh và photocopy, do thời gian đã lâu nên Đ và Tr không xác định được tên cửa hàng và địa chỉ của cửa hàng. Do đó, Cơ quan CSĐT không có căn cứ để làm rõ người đàn ông đã làm giả giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy đồng thời không thu giữ được những công cụ, phương tiện mà người đàn ông sử dụng để làm giấy tờ giả cho Đ và Tr. Mặt khác, Đ và Tr đều khai nhận thuê người đàn ông làm giả giấy tờ để lưu trữ thông tin, Đ và Tr không nói cho người đàn ông biết làm giả giấy tờ để đi cầm cố vay tiền do đó không có căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự của hành vi của người đàn ông là phù hợp.

[6]. Đối với anh Trần Văn M, anh Trần Ngọc H và anh Phạm Hồng Th, đã cho Bị cáo Đ và Bị cáo Tr vay tiền, đây là giao dịch dân sự, số tiền lãi vay không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay là phù hợp với quy định của pháp luật dân sự. Sau khi vay tiền, các Bị cáo không có ý định chiếm đoạt tiền của người cho vay; khi người cho vay đòi nợ, các Bị cáo đều có thái độ hợp tác trả tiền và không trốn tránh. Do đó, hành vi cho vay của anh M, anh H, anh Th không có dấu hiện phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” và hành vi vay tiền của Bị cáo Đ và Bị cáo Tr không cấu thành tội phạm hình sự.

[7]. Về xử lý vật chứng:

-Đối với 02 (hai) giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 016443, trên giấy đăng ký ghi tên chủ xe Nguyễn M Đ, nhãn hiệu: YAMAHA; Số loại: EXCITER; Màu Sơn: Xám xanh và 02 (hai)giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 013133, trên giấy đăng ký ghi tên chủ xe Đỗ Quỳnh Tr, nhãn hiệu: HONDA; Số loại: SHMODE; Màu Sơn: Bạc-đen (đều là giấy tờ giả): Đây là các vật chứng, chứng minh hành vi phạm tội của các Bị cáo và là tài liệu chứng cứ chứng minh cho tội phạm cần tịch thu, lưu hồ sơ.

- Đối với 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 13139xxxx mang tên Nguyễn M Đ và 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện mô tô, xe máy tên chủ xe Nguyễn M Đ (thời hạn bảo hiểm từ ngày 07/01/2018 đến ngày 07/01/2019): Tại phiên tòa Đ khai nhận đã làm căn cước công dân, do đó Giấy chứng minh nhân dân Bị cáo không sử dụng nữa; giấy Chứng nhận bảo hiểm đã hết hạn sử dụng, nên Bị cáo Đ không yêu cầu trả lại. Đây là vật chứng liên quan đến tội phạm nên cần tịch thu, lưu hồ sơ.

[8] Về án phí:Các Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[9] Đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, hình phạt chính, xử lý vật chứng phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận. Riêng đề nghị về hình phạt bổ sung, như đã nhận định ở trên, xét thấy không phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[10] Về quyền kháng cáo: Các Bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ kết tội:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38 của BLHS năm 2015 đối với Bị cáo Nguyễn M Đ;

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 của BLHS năm 2015 đối với Bị cáo Đỗ Quỳnh Tr.

- Tuyên bố các Bị cáo Nguyễn M Đ và Đỗ Quỳnh Tr phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

2. Trách nhiệm hình sự, hình phạt:

- Xử phạt các Bị cáo Nguyễn M Đ và Đỗ Quỳnh Tr mỗi bị cáo 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, được tính từ ngày các Bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 16/10/2023);

- Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Đ, bị cáo Tr.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của BLHS năm 2015; Điều 105, khoản 1 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu, lưu hồ sơ các tài liệu, chứng cứ gồm:

+ 02 (hai) giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 016443, trên giấy đăng ký ghi tên chủ xe Nguyễn M Đ 1985, địa chỉ: Khu 2 - Giáp Lai - T - P, nhãn hiệu: YAMAHA; Số loại: EXCITER; Màu Sơn: Xám xanh; Dung tích:

149,8; Số máy: G3D4E588397, số khung: 0610HY563415; Biển số đăng ký: 19C1 - xxxxx; Đăng ký lần đầu ngày 04/01/2018; Giấy đăng ký có chữ ký của Trung tá Nguyễn Quang M - Phó Trưởng Công an huyện và đóng hình dấu tròn đỏ của Công an huyện T.

+02 (hai)giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 013133, trên giấy đăng ký ghi tên chủ xe Đỗ Quỳnh Tr 1995, địa chỉ: Đồng Phú - Thạch Khoán - T - P, nhãn hiệu: HONDA; Số loại: SHMODE; Màu Sơn: Bạc-đen; Dung tích:

124,9; Số máy: JF51E0810061, số khung: 5130GZ203467; Biển số đăng ký: 19C1 - xxxxx; Đăng ký lần đầu ngày 11/01/2017; Giấy đăng ký có chữ ký của Trung tá Nguyễn Quang M - Phó Trưởng Công an huyện và đóng hình dấu tròn đỏ của Công an huyện T.

(đều là giấy tờ giả - bút lục 206, 207, 208).

+ 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 13139xxxx mang tên Nguyễn M Đ và 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện mô tô, xe máy tên chủ xe Nguyễn M Đ (thời hạn bảo hiểm từ ngày 07/01/2018 đến ngày 07/01/2019) – bút lục 205.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Buộc các Bị cáo Nguyễn M Đ và Đỗ Quỳnh Tr mỗi Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Đ, Bị cáo Tr được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; những Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định để yêu cầu Tòa án nhân tỉnh P xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 14/2024/HS-ST

Số hiệu:14/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về