Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 105/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ QUẢNG YÊN, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 105/2023/HS-ST NGÀY 22/11/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 22 tháng 11 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Q tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 98/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 98/2023/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn H; tên gọi khác: không. Giới tính: Nam. Sinh ngày: 02/8/1983, tại thị xã Q, tỉnh Q. Nơi thường trú: khu Y, phường M thị xã Q, tỉnh Q. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không. Trình độ học vấn: lớp 04/12. Nghề nghiệp: lao động tự do. Họ và tên bố: Trần Duy L; họ và tên mẹ: Trần Thị M. Vợ: Lương Thị H; có 01 con, sinh năm 2012.

- Tiền án, tiền sự: không;

- Nhân thân: năm 2001, bị Tòa án nhân dân huyện Y (nay là thị xã Q) xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Năm 2008, bị Tòa phúc thẩm tại Hà Nội - Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 04 năm tù về tội “Chứa mại dâm”, ngày 30/8/2010 chấp hành xong bản án.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 10 phút ngày 02/4/2023, Trần Văn H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter gắn biển kiểm soát (BKS) 14K1- xxxxx đi theo hướng từ phường Cộng Hòa đi ngã ba Km11. Khi đi đến đoạn đường trước cổng Trường trung học phổ thông Đông Thành, thuộc khu Km11, phường Minh Thành, thị xã Q, H điều khiển xe đi nhanh, vượt phương tiện xe mô tô đi phía trước cùng chiều, đi sang phần đường bên trái lấn sang phần đường ngược chiều va chạm với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Janus gắn BKS 14X1- xxxxx do anh Nguyễn Thanh H (sinh năm 1981, trú tại tổ 7, khu 3, phường Thanh Sơn, thành phố Uông Bí, tỉnh Q) điều khiển xe đi hướng ngược lại. Hậu quả: anh H và H bị thương tích (theo Kết luận giám định số 379/KLTTCT-TTPY ngày 02/6/2023 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Q kết luận tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Thanh H là 49%), hai phương tiện bị hư hỏng nhẹ.

Ngày 16/4/2023, Trần Văn H xuất trình cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Q 01 thẻ cứng “Giấy phép lái xe hạng A1 số 22120800xxxx cấp ngày 19/12/2020 mang tên Trần Văn H” do Sở giao thông vận tải tỉnh Q cấp. Tại bản kết luận giám định số 940/KL-KTHS ngày 07/07/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, kết luận: thẻ cứng “Giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Trần Văn H” là giả.

Tại Công văn phúc đáp số 3925/SGTVT-QLĐTSH của Sở giao thông vận tải tỉnh Q ngày 04/8/2023, xác nhận: Chưa cấp GPLX (mô tô, ô tô) cho Trần Văn H; không cấp GPLX số 22120800xxxx, hạng A1 cho Trần Văn H.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Văn H khai nhận: Năm 2020, khi ở thành phố Hà Nội, bị cáo đã mua 01 giấy phép lái xe (GPLX) giả từ một người đàn ông (không rõ lai lịch) qua mạng xã hội Facebook với giá 1.000.000 đồng, mục đích để sử dụng khi bị kiểm tra. H cung cấp thông tin cá nhân và ảnh của bản thân cho người bán, sau đó người này chuyển GPLX giả cho H qua đường bưu điện. Chiều ngày 02/4/2023, bị cáo đi ăn cùng một số bạn bè cùng công ty tại quán Bà Mấu thuộc phường Đông Mai, bị cáo có uống bia, sau khi ăn uống xong bị cáo điều khiển xe mô tô BKS K1-xxxxx đi về, khi đi đến gần cổng Trường trung học phổ thông Đông Thành thuộc Cây số 11, phường Minh Thành, thị xã Q thì có 01 xe mô tô đi từ ngõ phía trường học đi sang đường, để tránh, bị cáo đã đánh lái sang trái nhưng do bị cáo đi với tốc độ cao nên khi gặp xe mô tô đi chiều ngược lại bị cáo đã không đánh lái lại về phần đường của mình được, đã gây ra tai nạn, trong quá trình giải quyết vụ tai nạn giao thông, bị cáo trình bày bị cáo có giấy phép lái xe và bị cáo đã xuất trình giấy phép lái xe hạng A1 số 22120800xxxx cấp ngày 19/12/2020 mang tên Trần Văn H cho Cơ quan công an.

Bị cáo chưa lần nào đăng ký học hay thi lấy giấy phép lái xe mô tô hoặc ô tô.

Tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có các tài liệu sau: Biên bản khám nghiệm hiện trường (bút lục 18), biên bản khám nghiệm phương tiện trong vụ tai nạn (bút lục 35, 44), kết luận định giá tài sản (bút lục 175,176); biên bản kiểm tra nồng độ cồn đối với bị cáo (bút lục 166); các tài liệu này đều có nội dung phù hợp lời khai của bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 101/CT-VKS-CP ngày 30/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q truy tố Trần Văn H về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa kiểm sát viên trình bày luận tội bị cáo với đề nghị kết tội bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn H từ 6 đến 9 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án. Giấy phép lái xe hạng A1 số 22120800xxxx cấp ngày 19/12/2020 mang tên Trần Văn H, do Sở giao thông vận tải tỉnh Q cấp, là giấy tờ giải, là tài liệu, chứng cứ, lưu theo hồ sơ vụ án. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với kết luận của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng, bị cáo thực sự ăn năn hối hận về hành vi của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp thống nhất, phù hợp tài liệu cơ quan điều tra thu thập đã được viện dẫn ở phần nội dung vụ án.

Đánh giá các chứng cứ trên, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Năm 2020, bị cáo Trần Văn H đã cung cấp thông tin cho người đàn ông không rõ lai lịch qua mạng xã hội Facebook để thuê làm giả 01 Giấy phép lái xe mô tô số 22120800xxxx, hạng A1 do Sở giao thông vận tải tỉnh Q cấp với mục đích để sử dụng khi bị cơ quan có thẩm quyền kiểm tra. Đến ngày 16/4/2023 bị cáo xuất trình giấy phép lái xe trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Q thì bị phát hiện.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, được quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự. Tội danh có khung hình phạt từ “phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm”. Cáo trạng truy tố bị cáo đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự quản lý hành chính của Nhà nước, cụ thể trong lĩnh vực quản lý giấy phép lái xe. Bị cáo là người trưởng thành, biết và nhận thức được hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả là trái pháp luật, nhưng vì muốn trốn tránh việc thi sát hạch cấp giấy phép lái xe theo quy định, bị cáo đặt mua trên mạng xã hội. Theo quy định của Luật giao thông đường bộ, bị cáo chưa được cấp giấy phép lái xe theo đúng quy định, bị cáo chưa đủ điều kiện để điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter gắn biển kiểm soát 14K1- xxxxx tham gia giao thông, nhưng do tự tin vào việc đã có giấy phép lái xe giả, bị cáo vẫn điều khiển xe dẫn đến ngày 02/4/2023 gây tai nạn, làm anh Nguyễn Thanh H bị thương, bị tổn hại 49% sức khỏe. Hậu quả do hành vi trái pháp luật của bị cáo không chỉ xâm phạm trật tự quản lý hành chính của Nhà nước trong việc quản lý giấy tờ, mà còn là một trong những nguyên nhân gây ra vụ tai nạn giao thông làm tổn hại sức khỏe của người khác, làm mất trật tự trị an xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo tỏ thái độ ăn năn hối cải; bố bị cáo được thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì, là người có công với Cách mạng; nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã bị kết án 02 lần, nhưng các bản án này đều đã được xóa án tích, nên xác định là nhân thân, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5] Hội đồng xét xử đánh giá tính chất, mức độ nguyên hiểm hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cho xã hội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng, yếu tố nhân thân, để quyết định mức hình phạt tương xứng, phù hợp. Xét thấy với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án, cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[6] Về vật chứng: Giấy phép lái xe mô tô số 22120800xxxx, hạng A1 do Sở giao thông vận tải tỉnh Q cấp ngày 19/12/2020 mang tên Trần Văn H là tài liệu chứng cứ, lưu theo hồ sơ vụ án, nên không đề cập xử lý.

Xe mô tô biển kiểm soát 14X1-xxxxx của anh Nguyễn Thanh H1 xe mô tô BKS 14K1-xxxxx của bị cáo, cơ quan điều tra đã trả lại anh H, trả bị cáo, nên không đề cập giải quyết trong vụ án [7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[10] Đối với hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ của bị cáo chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, Công an thị xã Q đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với bị cáo là phù hợp, không đề cập giải quyết trong vụ án. Đối với người đàn ông bị cáo thuê làm giả Giấy phép lái xe, quá trình điều tra không xác định được con người cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: bị cáo Trần Văn H phạm tội: “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Xử phạt: bị cáo Trần Văn H 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

Áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, Tạm hoãn xuất cảnh đối với bị cáo, thời hạn 45 ngày, để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Trần Văn H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 105/2023/HS-ST

Số hiệu:105/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Yên - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về