Bản án về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản số 18/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ QUẢNG TRỊ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 18/2022/HS-ST NGÀY 28/12/2022 VỀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

1. Văn Ngọc H; sinh ngày 16/01/2004 tại Quảng Trị; nơi cư trú: Thôn L, xã H, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: không nghề. Trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Văn Ngọc D, sinh năm 1968 và bà Lê Thị N, sinh năm 1974, địa chỉ: Thôn L, xã H, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị; vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (Có mặt) 2. Ngô Bá Q; sinh ngày 28/5/2004 tại Quảng Trị; nơi cư trú: Khu phố A, phường A, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Không nghề. Trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Bá C, sinh năm 1968 và bà Lê Thị T, sinh năm 1974, địa chỉ: Khu phố A, phường A, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị; vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (Có mặt) - Bị hại: Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1994; địa chỉ: Số 54, phố T, xã T, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 04/01/2022, Văn Ngọc H và Ngô Bá Q gặp nhau tại quán Internet X, đường Trần Bình Trọng, thị xã Quảng Trị. Văn Ngọc H biết Ngô Bá Q có tài khoản ngân hàng để nhận và rút tiền giúp các đối tượng chiếm đoạt tiền qua mạng Internet, nên H hỏi Q: “Bữa nay rửa tiền giá mấy?”. Nghe H hỏi thì Q hiểu ý nếu cho H mượn thông tin tài khoản ngân hàng để nhận và rút tiền do H chiếm đoạt của người khác thì Q sẽ hưởng lợi nên Q trả lời: “Giá 80” (Nghĩa là Q được hưởng 20% trên tổng số tiền mà H chiếm đoạt được). Hiệp thống nhất khi nào cần thì sẽ liên lạc lại.

Ngày 08/01/2022, H đến quán Internet X, đường Trần Bình Trọng, thị xã Quảng Trị. Tại đây H sử dụng máy tính có kết nối internet vào trình duyệt Wed Google và mở một giao diện tạo tài khoản facebook ảo có tên “N” nhằm mục đích chiếm đoạt tiền qua tài khoản của người khác, sau đó H lên các nhóm bán hàng trên mạng xã hội facebook thì thấy tài khoản facebook “T” của chị Nguyễn Thị Thanh H (Sinh năm 1994, trú tại xã T, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội) rao bán một cái áo phao giá 950.000 đồng. H nhắn với tài khoản facebook “T” để đặt mua áo và trao đổi với chị H hiện H đang ở nước ngoài nên muốn mua áo và gửi về địa chỉ ở Hà Nội. Sau đó H nghỉ ra số điện thoại và địa chỉ ở Hà nội để nhắn tin cho chị H với nội dung: “Địa chỉ: 26 T, Bùi Thị Xuân, Hai Bà Trưng, Hà Nội 076779xxxx”. Rồi H gửi cho chị H đường line Website (nay Hiệp không nhớ đường line) do H tự tạo ra từ trước từ trang website: www.weebly.com. H trao đổi với chị H vào đường line để điền các thông tin tài khoản ngân hàng để nhận tiền. Sau khi chị Huyền điền các thông tin số của tài khoản ngân hàng vào đường line và bấm xác nhận thì những thông tin của chị H được lưu vào trang website: www.weebly.com mà H đã lập, trên website này có mục nhập mã OTP, khi chị H nhập mã OTP vào mục này thì mặc định sẽ thông báo mã OTP lỗi và yêu cầu nhập lại mã OTP của tài khoản ngân hàng, sau 1 phút thì chị Huyền nhập mã OTP thứ hai. Khi đã có mã OTP thứ nhất thì H đã vào trang website của ngân hàng Vietcombank để đăng nhập vào tài khoản ngân hàng của chị H. H thấy trong tài khoản của chị H có 17.900.000 đồng. H liên lạc với Ngô Bá Q thông qua ứng dụng messenger của Facebook trên máy tính để Q cung cấp cho H số tài khoản để nhận tiền. Sau khi Q nhắn số tài khoản 618027xxxx, chủ tài khoản mang tên Đỗ Hoàng A thuộc Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (số tài khoản này do Q mua qua mạng xã hội của Đỗ Hoàng A, sinh ngày 07/10/2022, trú tại 80 tổ 27, P, Đống Đa, Hà Nội) cho H thì H chuyển 17.900.000 đồng trong tài khoản số 093100418xxxx thuộc ngân hàng Vietcombank của H vào số tài khoản mà Q đã cung cấp. Lúc này ngân hàng yêu cầu mã OTP chuyển tiền thì H đã nhập mã OTP thứ hai mà H nhận đươc trên website: www.weebly.com để hoàn tất việc chuyển tiền. Sau khi chuyển được số tiền trên vào tài khoản của Q thì H thu hồi các tin nhắn với tài khoản facebook “T” đồng thời xóa tài khoản facebook “N” và đường line trên website:

www.weebly.com. Sau khi nhận được số tiền 17.900.000 đồng, Ngô Bá Q sử dụng điện thoại di động Iphone 13 Promax vào ứng dụng internet banking để tiếp tục chuyển toàn bộ số tiền này vào tài khoản 937486xxxx thuộc Ngân hàng Vietcombank chủ tài khoản mang tên Đỗ Hoàng A. Tiếp đó Q chuyển 16.000.000 đồng đến tài khoản 992587xxxxx thuộc Ngân hàng Vietcombank chủ tài khoản mang tên Lê Tấn T, sinh năm 1995, trú tại 333/31 T, phường 8, Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh (cả hai tài khoản trên đều do Q mua trên mạng xã hội với giá 4.000.000 đồng). Sau đó Q đến cây ATM của Ngân hàng Sacombank chi nhánh thị xã Quảng Trị rút tiền và đưa cho H 14.000.000 đồng, còn lại còn lại Q hưởng lợi từ việc rút tiền giúp H.

Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thu giữ các vật chứng của vụ án gồm: Một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Promax màu xanh, có số IMEI:

351339410253394. Máy điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

Về dân sự: Quá trình giải quyết vụ án Văn Ngọc H đã bồi thường thiệt hại chị Nguyễn Thị Thanh H 10.000.000 đồng. Ngô Bá Q đã bồi thường cho chị H 3.900.000 đồng. Chị H yêu cầu H phải bồi thường số tiền còn lại là 4.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 19/CT-VKS-TXQT ngày 23/11/2022, của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị truy tố bị cáo Văn Ngọc H và Ngô Bá Q về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 290 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Quảng Trị giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Văn Ngọc H và Ngô Bá Q phạm tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 290 Bộ luật Hình sự.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 290; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38;

Điều 90, khoản 1, 6 Điều 91, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự; riêng bị cáo Ngô Bá Q áp dụng thêm khoản 1, 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Văn Ngọc H từ 07 tháng đến 10 tháng tù;

xử phạt bị cáo Ngô Bá Q từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 589 của Bộ luật Dân sự đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Văn Ngọc H bồi thường cho chị Nguyễn Thị Thanh H số tiền còn lại 4.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01(Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Promax màu xanh, có số IMEI: 351339410253394. Máy điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 23 nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị xử buộc bị cáo Văn Ngọc H và Ngô Bá Q mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Văn Ngọc H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Các bị cáo không tranh luận gì, thừa nhận hành vi phạm tội của mình và nhất trí với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Quảng Trị, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Quảng Trị, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội tại phiên tòa hôm nay của bị cáo Văn Ngọc H và Ngô Bá Q là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ kết luận: Ngày 08/01/2022, tại quán Internet X ở đường Trần Bình Trọng, thị xã Quảng Trị, Văn Ngọc H sử dụng mạng xã hội, mạng máy tính để chiếm đoạt các thông tin về số tài khoản, mật khẩu banking, mã OTP và sử dụng các thông tin này để chiếm đoạt số tiền 17.900.000 đồng trong tài khoản số 093100418xxxx thuộc Ngân hàng Vietcombank của chị Nguyễn Thị Thanh H rồi chuyển tiền vào tài khoản cho Ngô Bá Q để rút tiền chia nhau hưởng lợi. Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 290 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã Quảng Trị truy tố bị cáo Văn Ngọc H và Ngô Bá Q về tội“Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” tại điểm a khoản 1 Điều 290 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất nguy hiểm, mức độ hậu quả của hành vi: Cùng với sự phát triển của công nghệ và truyền thông thì tội phạm về sử dụng công nghệ cao, sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác trên địa bàn thị xã Quảng Trị ngày càng gia tăng và có tính chất phức tạp làm ảnh hưởng đến lợi ích công cộng và lợi ích quốc gia trong lĩnh vực thông tin và an toàn mạng. Bị cáo Văn Ngọc H và Ngô Bá Q là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài cho bản thân mà các bị cáo trực tiếp xâm hại đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần xử phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.

[4] Đây là vụ án đồng phạm, xét vai trò của từng bị cáo thấy rằng: Bị cáo Văn Ngọc H là người trực tiếp tạo đường line trên website trên mạng xã hội để chiếm đoạt thông tin về tài khoản, mật khẩu banking, mã OTP nhằm chiếm đoạt tiền của người khác, còn Ngô Bá Q là người giúp sức cho H, đưa số tài khoản mà Q quản lý cho H, để chuyển số tiền mà H chiếm đoạt trái pháp luật từ tài khoản của chị Nguyễn Thị Thanh H về tài khoản Q quản lý. Bị cáo Q được hưởng lợi 20% từ việc rút tiền cho H. Vì vậy, khi lượng hình cần xem xét tính chất phạm tội của từng bị cáo trong việc thực hiện hành vi phạm tội để áp dụng hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo.

[5] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Văn Ngọc H và Ngô Bá Q không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo H đã bồi thường 10.000.000 đồng, bị cáo Q bồi thường 3.900.000 đồng cho chị Nguyễn Thị Thanh H, nên các bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội bồi thường thiệt hại” quy định điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt: Từ những phân tích nhận định về tính chất, hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải xử phạt bị cáo Văn Ngọc H chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Đối Ngô Bá Q thực hiện với vai trò giúp sức nên chỉ cần xử phạt tù cho hưởng án treo đối với bị cáo cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo theo khoản 1, 2 và 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Tại thời điểm phạm tội các bị cáo là người chưa đủ 18 tuổi, nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 90, khoản 1, 6 Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự để áp dụng mức hình phạt đúng quy định của pháp luật.

Tiếp tục thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Văn Ngọc H cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[7] Đối với Đỗ Hoàng A là người bán số tài khoản 937486xxxx cho Ngô Bá Q nhưng không biết được Q sử dụng các tài khoản này vào mục đích lừa đảo để chiếm đoạt tài sản của người khác nên không xem xét trách nhiệm hình sự.

[8] Đối với Lê Tấn Tài là chủ tài khoản số 992587xxxxx thuộc Ngân hàng Vietcombank. Quá trình điều tra Q khai đã mua số tài khoản này qua mạng xã hội. Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, khi nào chứng minh được hành vi phạm tội của Lê Tấn T sẽ xử lý bằng một vụ án khác.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình giải quyết vụ án Văn Ngọc H đã bồi thường thiệt hại chị Nguyễn Thị Thanh H 10.000.000 đồng. Ngô Bá Q đã bồi thường cho chị H 3.900.000 đồng. Chị H yêu cầu H phải bồi thường số tiền còn lại là 4.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét yêu cầu của chị H là có căn cứ. Buộc bị cáo Văn Ngọc H bồi thường cho chị Nguyễn Thị Thanh H số tiền còn lại 4.000.000 đồng.

[10] Về xử lý vật chứng: Một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Promax màu xanh, có số IMEI: 351339410253394. Đây là phương tiện phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước (Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015)

[11] Về án phí: Bị cáo Văn Ngọc H và Ngô Bá Q mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Văn Ngọc H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 290; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 90, khoản 1, 6 Điều 91, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136, Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đối với bị cáo Ngô Bá Q áp dụng thêm điểm a khoản 1 Điều 47; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Văn Ngọc H phải chịu thêm khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 589 của Bộ luật Dân sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Văn Ngọc H và Ngô Bá Q phạm tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Văn Ngọc H 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù kể từ ngày bắt thi hành án.

Xử phạt bị cáo Ngô Bá Q 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 tháng, tính từ ngày xét xử sơ thẩm ngày 28/12/2022.

Giao bị cáo Ngô Bá Q cho Ủy ban nhân dân phường A, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường A, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo có vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã hưởng án treo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Văn Ngọc H phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị Thanh H số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án nếu bị cáo không tự nguyện thi hành án đối với khoản tiền bồi thường thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01(Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Promax màu xanh, có số IMEI: 351339410253394. Máy điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

(Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/11/2022 giữa Công an thị xã Quảng Trị và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Quảng Trị).

4. Về án phí: Các bị cáo Văn Ngọc H, Ngô Bá Q mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Văn Ngọc H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản số 18/2022/HS-ST

Số hiệu:18/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Trị - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về