TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 262/2022/HS-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ TỘI SỬ DỤNG CON DẤU, TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Vào các ngày 19, 25 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 224/2022/TLST- HS ngày 22 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 277/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:
Lưu Văn D; Sinh năm 1988 tại tỉnh D; Địa chỉ đăng ký thường trú và cư trú tại: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh D; Nghề nghiệp: Phụ hồ; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lưu Văn T, sinh năm 1956 và bà Tăng Thị B, sinh năm 1956; Có vợ và 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2019; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 05/12/2014 bị Công an Quận 9 (nay là thành phố Thủ Đức) xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi tàng trữ vũ khí thô sơ, bị cáo chưa đóng phạt; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 23 tháng 9 năm 2020. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lưu Văn D bị hư một mắt bên phải nên không đủ điều kiện để đăng ký dự thi giấy phép lái xe hai bánh hạng A1. Tuy nhiên, do cần có giấy phép lái xe để đi đường nên vào khoảng tháng 7/2018, D vào mạng xã hội tìm trang web làm giấy phép lái xe để đặt làm 01 giấy phép lái xe giả. Trong lúc tìm kiếm, D đã vào 01 trang web (không nhớ tên trang web) quảng cáo nhận làm giấy phép lái xe kèm số điện thoại liên hệ, D sử dụng điện thoại gọi vào số thuê bao này (không nhớ rõ số) thì có một thanh niên (không rõ lai lịch) nghe máy, lúc này D trình bày ý định cần làm 01 giấy phép lái xe do D bị hư mắt phải, người này đồng ý làm giấy phép lái xe với giá 1.200.000 đồng và nói D đưa 02 tấm hình 3x4, bản photo giấy chứng minh nhân dân, đưa trước 200.000 đồng và hẹn gặp tại Ngã ba Tân Vạn gần cầu Đồng Nai thuộc Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Sau đó, D đến điểm hẹn và gặp một người thanh niên (không rõ lai lịch) rồi D đưa tiền cùng giấy tờ như đã yêu cầu. Khoảng 01 tuần sau, tại Ngã ba Tân Vạn gần cầu Đồng Nai, D gặp người thanh niên đưa cho người thanh niên này số tiền 1.000.000 đồng để nhận giấy phép lái xe.
Khoảng 21 giờ 30 ngày 16/5/2020, Đội Cảnh sát giao thông Công an Quận 9 (này là Công an thành phố Thủ Đức) tuần tra trên tuyến đường Nguyễn Văn Tăng, phường Long Thạnh Mỹ, Thành phố Thủ Đức phát hiện D đang điều khiển xe mộ tô biển số 94F1-265.76 có biểu hiện say xỉn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Kết quả kiểm tra nồng độ cồn của D là 0,493 mg/1. Sau đó, D xuất trình giấy phép lái xe hai bánh hạng A1 mang tên Lưu Văn D. Qua kiểm tra nhận thấy giấy phép lái xe có dấu hiệu giả nên Tổ tuần tra tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính và tạm giữ phương tiện cùng giấy phép lái xe của D sau đó chuyển Cơ quan Cảnh sát Điều tra để xử lý. Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra, Lưu Văn D đã khai nhận hành vi nêu trên của mình phù hợp với các tài liệu và chứng cứ thu giữ được.
Kết luận giám định số 1287 ngày 23/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: giấy phép lái xe hạng A1 số 79018825666 do Sở GTVT Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 28/01/2018 mang tên Lưu Văn D được làm giả bằng phương pháp in phun màu.
Quá trình điều tra, Lưu Văn D bỏ trốn khỏi nơi cư trú. Ngày 28/6/2021, Cơ quan Cảnh sát Điều tra ra Quyết định truy nã đối với Lưu Văn D. Ngày 24/3/2022, Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã bắt được Lưu Văn D.
Vật chứng vụ án thu giữ:
- 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 79018825666 do Sở GTVT Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 28/01/2018 mang tên Lưu Văn D.
- 01 xe môtô biển số 94F1-265.76 đội Cảnh sát giao thông đã trả chiếc xe trên cho D.
Bản cáo trạng số 220/CT-VKSTPTĐ ngày 10/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức truy tố Lưu Văn D về tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lưu Văn Dvề tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự xử phạt Lưu Văn D 2 mức án từ 06 – 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; Về xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng; Bị cáo không có ý kiến tranh luận với luận tội của Kiểm sát viên và không tự bào chữa; Bị cáo nói lời sau cùng biết lỗi của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lưu Văn D khai nhận khoảng tháng 7/2018, tại quận Thủ Đức (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù biết bản thân không đủ điều kiện để dự thi bằng lái xe môtô nhưng Lưu Văn D vẫn lên trang mạng để tìm mua 01 giấy phép lái xe môtô giả để sử dụng nhằm mục đích gian dối với lực lượng Cảnh sát giao thông khi vi phạm giao thông. Ngày 16/5/2020, D điều khiển xe môtô có nồng độ cồn vượt mức quy định, khi bị Cảnh sát giao thông kiểm tra thì D đã sử dụng giấy phép lái xe giả xuất trình cho Cảnh sát giao thông nhằm gian dối, qua mặt Cảnh sát giao thông thì bị phát hiện. Hành vi của bị cáo Lưu Văn D đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Do đó, cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật để răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.
[3] Như vậy quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức đối với bị cáo Lưu Văn D về tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội cần phải xử lý nghiêm minh bị cáo trước pháp luật vì vậy, có một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo nói riêng và đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
3 [7] Về xử lý vật chứng: 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 79018825666 do Sở GTVT Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 28/01/2018 mang tên Lưu Văn D cần lưu hồ sơ.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Lưu Văn D phạm tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
1. Áp dụng khoản 1 Điều 341; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt:
Bị cáo Lưu Văn D 06 (Sáu) tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
2. Áp dụng Điều 106 Bộ Luật Tố tụng Hình sự: Lưu hồ sơ 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 79018825666 do Sở GTVT Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 28/01/2018 mang tên Lưu Văn D.
3. Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo Lưu Văn D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án về tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 262/2022/HS-ST
Số hiệu: | 262/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về