TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 93/2022/HS-ST NGÀY 13/12/2022 VỀ TỘI SỬ DỤNG CON DẤU HOẶC TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 13 tháng 12 năm 2022, tại Hội trường xử án Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh B; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 90/2022/TLST-HS, ngày 16 tháng 11 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2022/QĐXXST-HS, ngày 28 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Đăng L, sinh năm 1987, tại tỉnh B; Nơi cư trú: Thôn 6, xã NC, huyện Đ, B; Tôn giáo: Phật; Trình độ văn hóa: 8/12; Nghề nghiệp: Tiếp thị; Tiền án: Không, tiền sự: Không; Con ông Nguyễn Đăng Tr, sinh năm 1960 và con bà Lê Thị L1, sinh năm 1964. Gia đình có 03 anh, em, Nguyễn Đăng L là con lớn trong gia đình. Chưa có vợ, con.
Bị cáo hiện đang được tại ngoại theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 103/2022/HSST-LCCT ngày 21/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh B. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 25/12/2021, tại Km 33 + 400, đường ĐT 766 thuộc xã NC, Cảnh sát giao thông huyện Đ kiểm tra lập biên bản vi phạm hành chính đối với: Nguyễn Đăng L, sinh năm 1987 trú thôn 6, xã NC, huyện Đ. Tạm giữ 01 giấy phép lái xe mô tô hạng A1 số 60020900xxxx ghi do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 25/2/2020, mang tên Nguyễn Đăng L.
Ngày 30/12/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ trưng cầu giám định tài liệu đối với: Giấy phép lái xe hạng A1 số 60020900xxxx ghi do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 25/2/2020, mang tên Nguyễn Đăng L do cảnh sát giao thông huyện Đ tạm giữ ngày 25/12/2021.
Tại Kết luận giám định số 10/KLGĐ - PC 09 ngày 17/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Giấy phép lái xe A1 số 60020900xxxx ghi do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 25/2/2020, mang tên Nguyễn Đăng L là giả.
Quá trình Điều tra Nguyễn Đăng L khai nhận:
Do Nguyễn Đăng L chưa có giấy phép lái xe mô tô hạng A 1. Khoảng đầu năm 2020 Nguyễn Đăng L lên mạng Facebook tìm mua giấy phép lái xe, L vào tài khoản của một người (không nhớ tên cụ thể và tên tài khoản) đặt mua giấy phép lái xe hạng A1 với giá 1.400.000 đồng (một triệu, bốn trăm ngàn đồng). Sau khi thống nhất giá tiền L chụp ảnh chứng minh nhân dân, chụp hình thẻ gởi qua trang mạng của người này. Khoảng 10 ngày sau Nguyễn Đăng L nhận được giấy phép lái xe hạng A1 số 60020900xxxx ghi do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 25/2/2020, mang tên Nguyễn Đăng L từ một nhân viên giao hàng. Sau khi kiểm tra giấy phép lái xe đúng thông tin cá nhân của mình L đưa 1.400.000 đồng cho nhân viên giao hàng.
Ngày 25/12/2021, Nguyễn Đăng L điều khiển xe mô tô tham gia giao thông, khi đến đoạn đường Km 33 + 400 đường ĐT 766 thuộc xã NC thì bị lực lượng Cảnh sát giao thông huyện Đ dừng xe kiểm tra vì lỗi không đội mũ bảo hiểm. Khi xuất trình giấy tờ thì lực lượng Cảnh sát giao thông Công an huyện Đ phát hiện giấy phép lái xe hạng A 1 của L xuất trình là giả nên lập biên bản tạm giữ.
Vật chứng vụ án: 01 giấy phép lái xe mô tô hạng A1 số 60020900xxxx ghi do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 25/02/2020, mang tên Nguyễn Đăng L.
Tại Cáo trạng số 90/CT-VKS-HS, ngày 15/11/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh B đã truy tố bị cáo Nguyễn Đăng L về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ nguyên Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đăng L phạm tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo từ 6 đến 9 tháng cải tạo không giam giữ. Về vật chứng: Đề nghị tịch thu lưu tại hồ sơ vụ án 01 giấy phép lái xe mô tô hạng A1 số 60020900xxxx ghi do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 25/02/2020, mang tên Nguyễn Đăng L.
Trong phần tranh luận: Bị cáo Nguyễn Đăng L thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận và không trình bày lời sau cùng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về hành vi và tội danh: Qua tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đăng L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với kết luận giám định; phù hợp với những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng tháng 2 năm 2020, thông qua mạng xã hội Facebook Nguyễn Đăng L đặt mua của một người (không nhớ tên cụ thể và tên tài khoản) 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 60020900xxxx ghi do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 25/02/2020, mang tên Nguyễn Đăng L với giá 1.400.000đồng, để sử dụng vào mục đích cá nhân.
Đến khoảng 16 giờ 30 phút ngày 25/12/2021, Nguyễn Đăng L đã có hành vi sử dụng giấy phép xe mô tô hạng A1 số 60020900xxxx nêu trên, điều khiển xe môtô 86B8-084.08 lưu thông trên đoạn đường tại Km 33 + 400, đường ĐT 766 thuộc xã NC, huyện Đ thì bị lực lượng Cảnh sát giao thông huyện Đ dừng xe kiểm tra, lập biên bản vi phạm hành chính và tạm giữ giấy phép lái xe.
Theo kết luận giám định số 10/KLGĐ - PC 09 ngày 17/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Giấy phép lái xe hạng A1 số 60020900xxxx ghi do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 25/02/2020, mang tên Nguyễn Đăng L là giả.
Bị cáo là công dân có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo chưa được cấp giấy phép lái xe hạng A1 theo đúng quy định, nhưng vì mục đích thỏa mãn nhu cầu cá nhân, bị cáo đã không qua thi sát hạch và cố ý liên hệ mua, sử dụng bằng lái xe hạng A1 giả để điều khiển xe mô tô tham gia giao thông là vi phạm Luật giao thông đường bộ.
Do đó, Cáo trạng số 90/CT-VKS-HS ngày 15/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo Nguyễn Đăng L về tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức theo khoản 1 Điều 341 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[2] Xét tính chất, mức độ Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước trong lĩnh vực quản lý con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình tìm cách giao dịch, đặt mua giấy phép lái xe giả nhằm mục đích điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng đối với bị cáo nhằm răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.
[3] Về tính tiết tặng nặng: Không.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, luôn tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trình độ văn hóa của bị cáo thấp nên nhận thức về pháp luật còn hạn chế; do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 và các tình tiết giảm nhẹ khác được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo phạm tội chỉ vì mục đích phục vụ nhu cầu đi lại của cá nhân và chưa gây thiệt hại về người cũng như tài sản cho người khác, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà tạo điều kiện cho bị cáo tự cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương là phù hợp quy định tại Điều 31, Điều 36 và Điều 341 của Bộ luật hình sự, nhằm thể hiện tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật. Xét thấy, công việc và thu nhập của bị cáo không ổn định, nên Hội đồng xét xử quyết định miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng: 01 giấy phép lái xe giả hạng A1 số 60020900xxxx ghi do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 25/02/2020, mang tên Nguyễn Đăng L là giấy phép lái xe giả, là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy. Tuy nhiên, đây là tài liệu, chứng cứ buộc tội đối với bị cáo, do đó cần tiếp tục được lưu giữ tại hồ sơ vụ án.
[6] Đối với người bán và người giao 01 giấy phép lái xe giả hạng A1 số 60020900xxxx ghi do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 25/02/2020, mang tên Nguyễn Đăng L, hiện tại Cơ quan cảnh sát điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Do đó, đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra, minh để đưa ra xử lý theo quy định.
[7] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp với những nhận định nêu trên nên được chấp nhận.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 341, Điều 36; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
1/ Tuyên bố: Nguyễn Đăng L phạm tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Xử phạt Nguyễn Đăng L 07 (bảy) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày UBND xã NC, huyện Đ nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Nguyễn Đăng L cho UBND xã NC, huyện Đ giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án.
2/ Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Tịch thu và lưu giữ vào hồ sơ vụ án 01 giấy phép xe mô tô hạng A1 số 60020900xxxx ghi do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 25/02/2020, mang tên Nguyễn Đăng L. (Vật chứng hiện đang được lưu giữ trong hồ sơ vụ án)
3/ Về án phí: Căn cứ Điều 136, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV: Buộc bị cáo Nguyễn Đăng L phải nộp số tiền 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án phí nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.
4/ Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 332 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Báo cho bị cáo có mặt tại phiên tòa biết được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, để Tòa án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Bản án về tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 93/2022/HS-ST
Số hiệu: | 93/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/12/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về