TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ A, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 34/2023/HS-ST NGÀY 08/05/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG CON DẤU HOẶC TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Trong ngày 08 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã A tiến hành xét xử vụ án hình sự thụ lý số: 28/2023/TLST- HS ngày 21 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 638/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2023, đối với bị cáo:
Đặng Hoàng H; sinh năm 1988, tại A, Đ; Nơi cư trú: số nhà 244 đường Q, phường B, thị xã A, tỉnh Đ; Trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Buôn bán; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn C, sinh năm 1964 và bà Huỳnh Kim H, sinh năm 1966; vợ tên Lê Thị M, sinh năm 1992; con có 03 người, lớn sinh năm 2018 nhỏ sinh năm 2023; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt.
* Người làm chứng:
1. Chị Đỗ Thị Phương Th, sinh năm: 1992; Nơi cư trú: Thôn P, xã C, huyện P, tỉnh Đ (vắng mặt)
2. Anh Phan Châu H, sinh năm: 1987; Nơi cư trú: số 95 đường V, phường N, thị xã A, tỉnh Đ (có mặt)
3. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1976; Nơi cư trú: số 32B T, phường B, thị xã A, tỉnh Đ (có mặt)
4. Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1966; Nơi cư trú: số 66 đường P, phường H, Thành phố Q, tỉnh Đ (có mặt)
5. Anh Giả Mai Văn H, sinh năm: 1996; Nơi cư trú: Thôn V, xã N, thị xã A, tỉnh Đ (có mặt)
6. Anh Đặng Hoàng V, sinh năm 2000; Nơi cư trú: số 244 đường Q, phường B, thị xã A, tỉnh Đ. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 7/2018, chị Đỗ Thị Phương Th có mua 01 xe mô tô, nhãn hiệu Honda Air Blade, biển kiểm soát (BKS) 77E1-xxxxx bằng hình thức trả góp với số tiền 45.000.000 đồng, trả trước số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi làm thủ tục đăng ký xe, Giấy chứng nhận đăng ký xe gốc Công ty FE Credit sẽ giữ, chị Thchỉ nhận bản photo có công chứng. Sau một thời gian sử dụng, chị Th bán lại xe mô tô trên cho Đặng Hoàng H với số tiền 30.000.000 đồng, kèm giấy Chứng nhận đăng ký xe bản photo công chứng và thỏa thuận chị Th tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả góp hàng tháng cho Công ty FE Credit đến khi trả xong sẽ giao Chứng nhận đăng ký xe cho H. Sau một thời gian sử dụng, Chứng nhận đăng ký xe bản photo công chứng bị cũ, rách nhưng H chưa nhận được bản gốc do chị Th chưa thực hiện xong nghĩa vụ trả góp, nên H nảy sinh ý định đặt làm một chứng nhận đăng ký xe mô tô giả sử dụng để đối phó với cơ quan chức năng khi điều khiển xe mô tô BKS 77E1-xxxxx tham gia giao thông. H đã lên mạng xã hội Facebook tìm thấy một trang quảng cáo làm giấy tờ giả, theo hướng dẫn đã kết bạn với một tài khoản Zalo tên “Cậu út” (không xác định được tên, số điện thoại đăng ký tài khoản). H thống nhất số tiền để làm giả chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy là 3.000.000 đồng và cung cấp ảnh chụp hai mặt bản photo công chứng Chứng nhận đăng ký của xe mô tô BKS 77E1-xxxxx. Khoảng 03 ngày sau, H nhận được giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô giả theo như nội dung thông tin đã cung cấp qua đường bưu điện và thanh toán số tiền 3.000.000 đồng cho nhân viên giao hàng. Sau khi nhận Chứng nhận đăng ký xe giả, H sử dụng để tham gia giao thông trong khoảng 01 tháng đến đầu năm 2019, H bán xe mô tô BKS 77E1-xxxxx cho anh Phan Châu H. Anh H trả trước cho H số tiền 15.000.000 đồng và H giao xe mô tô cùng Chứng nhận đăng ký xe giả cho H sử dụng (H không nói cho H biết chứng nhận đăng ký xe mô tô trên là giả). Sau khi mua xe mô tô BKS 77E1-xxxxx, H đem xe cùng Chứng nhận đăng ký xe thế chấp cho chị Nguyễn Thị T để vay số tiền 30.000.000 đồng trong thời hạn 01 tháng (khi nhận thế chấp chị T không biết Chứng nhận đăng ký xe là giả). Khoảng đầu tháng 6/2020, quá thời gian thế chấp nhưng không thấy H đến lấy lại xe nên chị Tiện đã bán xe này kèm giấy Chứng nhận đăng ký xe cho chị Nguyễn Thị X với số tiền 30.000.000 đồng. Ngày 27/12/2021, chị X đến Công an huyện P, tỉnh Đ làm thủ tục sang tên thì bị Công an huyện P phát hiện giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô là giả nên đã tạm giữ xe mô tô cùng Chứng nhận đăng ký xe và chuyển hồ sơ đến Cơ quan CSĐT Công an thị xã A để thụ lý xác minh.
Ngày 18/02/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ có văn bản kết luận Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 030657, biển số đăng ký 77E1- xxxxx là Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy “giả”.
Vào khoảng tháng 8/2018, anh Giả Mai Văn H hỏi vay mượn tiền của Đặng Hoàng H số tiền 15.000.000 đồng. Nhận được tiền, anh H cầm số tiền trên đến cửa hàng Yamaha Hưng Lợi làm hợp đồng vay vốn mua trả góp xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter 150 với Công ty tài chính TNHH HD SAISON. Sau khi làm thủ tục đăng ký xe, giấy Chứng nhận đăng ký xe gốc (ghi tên Giả Mai Văn H) phía Công ty HD SAIGON sẽ giữ, anh Hậu nhận 01 bản photo có công chứng. Sau khi mua xe, anh H nói H mua lại với giá 35.000.000 đồng, H đồng ý và đưa thêm cho anh H số tiền 20.000.000 đồng để mua lại xe mô tô trên. Theo thỏa thuận, sau khi bán xe cho H, anh H vẫn tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả góp hàng tháng cho Công ty HD SAISON đến khi trả xong, Hậu nhận được Chứng nhận đăng ký xe bản gốc sẽ giao lại cho H. Anh H mang xe mô tô đi làm thủ tục đăng ký xe (do H đứng tên) và đăng ký biển số 77F1- xxxxx rồi đưa xe cho H sử dụng. H sử dụng xe một thời gian nhưng không thấy anh H đưa Chứng nhận đăng ký xe bản photo công chứng để sử dụng và không liên lạc được với anh H nên H nảy sinh ý định đặt làm một Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả cho xe mô tô biển số 77F1-xxxxx sử dụng đối phó với cơ quan chức năng khi tham gia giao thông. Khoảng cuối năm 2018, H tìm thấy trên mạng xã hội Facebook một trang quảng cáo làm các loại giấy tờ giả (không xác định được tên, tài khoản), theo hướng dẫn, H kết bạn với một tài khoản Zalo (không xác định được tên, số điện thoại đăng ký tài khoản) thỏa thuận làm giả Chứng nhận đăng ký của xe mô tô BKS 77F1- xxxxx với giá 2.000.000 đồng. H cung cấp qua Zalo ảnh chụp chứng minh nhân dân của anh Giả Mai Văn H, các thông tin liên quan đến xe mô tô gồm nhãn hiệu, biển số, số khung, số máy và cHển tiền đặt cọc 100.000 đồng cho bên nhận làm giả. Khoảng 03 ngày sau, H nhận được Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy có các thông tin như “số 015371, tên chủ xe: GIẢ MAI VĂN H – 1996; địa chỉ: Vân Sơn, Nhơn H, A, BĐ; biển số đăng ký: 77F1-xxxxx” từ bưu điện và thanh toán số tiền còn lại. Sau khi nhận Chứng nhận đăng ký xe giả, H sử dụng để tham gia giao thông được khoảng 02 tuần rồi cho lại xe mô tô trên cùng Chứng nhận đăng ký xe giả cho anh Đặng Hoàng Văn (là em ruột của H) sử dụng (nhưng không nói cho Văn biết giấy chứng nhận đăng ký xe là giả). Ngày 06/11/2021, anh Văn điều khiển xe mô tô BKS 77F1-xxxxx chở anh Tạ Chí Đông ngồi sau không đội mũ bảo hiểm lưu thông trên đường Lê Hồng Phong, phường Đ, thị xã A bị tổ Tuần tra kiểm soát thuộc Đội CSGT-TT Công an thị xã A phát hiện dừng xe xử lý. Qua kiểm tra giấy tờ, tổ công tác nghi vấn Chứng nhận đăng ký của xe mô tô BKS 77F1-xxxxx là giả nên đã lập biên bản, tạm giữ phương T, giấy tờ và cHển hồ sơ đến Cơ quan CSĐT Công an thị xã A để thụ lý giải quyết.
Ngày 21/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ có văn bản kết luận Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 015371, ghi tên chủ xe: GIẢ MAI VĂN H – 1996; địa chỉ: V, N, A, BĐ; biển số đăng ký: 77F1-xxxxx là Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy “giả”.
Vật chứng của vụ án - 01 (một) Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 015371, mang tên GIẢ MAI VĂN H – 1996, địa chỉ: V, N, A, BĐ; Biển số đăng ký: 77F1-xxxxx do Công an huyện A cấp ngày 09/08/2018; có chữ ký tên Thượng tá Nguyễn Đình Quang dưới mục “TRƯỞNG CÔNG AN HUYỆN” và có hình dấu tròn Công an huyện A màu đỏ, được ép nhựa (Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả); 01 (một) Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 030657, biển số đăng ký: 77E1-xxxxx (Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả, đã được niêm phong). Hiên đang tạm giữ cùng hồ sơ vụ án.
- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, gắn biển số: 77F1-xxxxx. Hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A.
- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade, gắn biển số: 77E1-xxxxx; 01 Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 030657, biển số đăng ký: 77E1-xxxxx (bản gốc) Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.
Tại bản cáo trạng số: 31/CT-VKSAN ngày 19/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân thị xã A truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Hoàng H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách do HĐXX ấn định.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị HĐXX tuyên:
- Lưu hồ sơ vụ án: 01 (một) Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 015371 mang tên GIẢ MAI VĂN H-sinh năm 1996, địa chỉ: V , N , A, BĐ; Biển số đăng ký:
77F1-xxxxx do Công an huyện A cấp ngày 09/8/2018; có chữ ký tên Thượng tá Nguyễn Đình Quang dưới mục “TRƯỞNG CÔNG AN HUYỆN” và có hình dấu tròn Công an huyện A màu đỏ, được ép nhựa (Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả).
01 (một) Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 030657, biển số đăng ký: 77E1- xxxxx (Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả, đã được niêm phong).
- Trả cho anh Đặng Hoàng V 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh xám, BKS 77F1-xxxxx.
Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Hoàng H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã A, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật [2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, thể hiện: Đặng Hoàng H sau khi mua xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 77F1-xxxxx của anh Giả Văn H và xe mô tô nhãn hiệu Airlade BKS 77E1-xxxxx của chị Đỗ Thị Phương Th nhưng chưa nhận được giấy chứng nhận đăng ký xe do các xe mô tô này đang trong thời hạn trả góp, Chứng nhận đăng ký xe công ty tài chính sẽ giữ. Để đối phó với cơ quan chức năng khi điều khiển các xe mô tô trên tham gia giao thông H đã 02 lần đặt mua các Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả trên mạng xã hội để sử dụng. Sau một thời gian sử dụng Đặng Hoàng H đã đưa xe mô tô BKS 77F1-xxxxx cho em ruột Đặng Hoàng V tiếp tục sử dụng và bán xe mô tô 77E1-xxxxx cùng giấy chứng nhận đăng ký xe giả cho anh Phan Châu H thì bị cơ quan chức năng phát hiện. Hành vi của Đặng Hoàng H đã phạm vào tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” với tình tiết định khung phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự nên Cáo trạng của viện kiểm sát nhân dân thị xã A truy tố bị cáo Đặng Hoàng H là đúng người đúng tội.
[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Đặng Hoàng H là công dân trưởng thành có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo có trình độ văn hóa để biết rằng hành vi sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả cuả cơ quan, tổ chức là vi phạm pháp luật nhưng để lừa dối cơ quan chức năng khi điều khiển xe mô tô tham gia giao thông H đã 02 lần đặt mua các Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả trên mạng xã hội để sử dụng, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến sự hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước về con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo là lao động chính trong gia đình, 03 người con của bị cáo còn ở tuổi vị thành niên, con nhỏ nhất sinh năm 2023. Hơn nữa bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội mà xử phạt bị cáo hình phạt tù có điều kiện cũng đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa chung. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
[5] Anh Đặng Hoàng V, Phan Châu H, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị X sử dụng giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy nhưng không biết là giả nên Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ.
[6] Về xử lý tang vật: Áp dụng Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:
- Lưu hồ sơ vụ án:
+ 01 (một) Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 015371 mang tên GIẢ MAI VĂN H-sinh năm 1996, địa chỉ: V, N, A, BĐ; Biển số đăng ký: 77F1-xxxxx do Công an huyện A cấp ngày 09/8/2018; có chữ ký tên Thượng tá Nguyễn Đình Quang dưới mục “TRƯỞNG CÔNG AN HUYỆN” và có hình dấu tròn Công an huyện A màu đỏ, được ép nhựa (Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả).
+01 (một) Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 030657, biển số đăng ký: 77E1-xxxxx (Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả, đã được niêm phong).
- Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh xám, BKS 77F1-xxxxx là của bị cáo Đặng Hoàng H mua của anh Giả Mai Văn H và sau đó bị cáo đã thay anh H trả hết số tiền mà anh H còn nợ cho Công ty tài chính TNHH HD SAISON nên trả lại cho bị cáo H sở hữu.
[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đặng Hoàng H phải chịu 200.000đ theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.
Vì những lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; 65 Bộ luật hình sự.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, 135, 136, 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Hoàng H phạm tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đặng Hoàng H 24 (hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Đặng Hoàng H cho Ủy ban nhân dân phường B, thị xã A, tỉnh Đ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Toà án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo 3. Về xử lý vật chứng:
- Lưu hồ sơ vụ án:
+ 01 (một) Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 015371 mang tên GIẢ MAI VĂN H-sinh năm 1996, địa chỉ: V, N, A, BĐ; Biển số đăng ký: 77F1-xxxxx do Công an huyện A cấp ngày 09/8/2018; có chữ ký tên Thượng tá Nguyễn Đình Quang dưới mục “TRƯỞNG CÔNG AN HUYỆN” và có hình dấu tròn Công an huyện A màu đỏ, được ép nhựa (Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả).
+ 01 (một) Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 030657, biển số đăng ký:
77E1-xxxxx (Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả, đã được niêm phong).
- Trả cho bị cáo Đặng Hoàng H 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh xám, BKS 77F1-xxxxx (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/4/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã A) 4. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đặng Hoàng H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).
5. Quyền kháng cáo: Vụ án được xét xử công khai có mặt bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”
Bản án về tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 34/2023/HS-ST
Số hiệu: | 34/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hoài Ân - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về