Bản án về tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức số 23/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGH AN

BẢN ÁN 23/2024/HS-ST NGÀY 24/01/2024 VỀ TỘI SỬ DỤNG CON DẤU HOẶC TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC

Ngày 24/01/2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 165/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2024/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thế T, tên gọi khác: Không, sinh ngày 08 tháng 2 năm 1989, tại thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi thường trú: Tổ dân phố A, phường N, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thế H và bà Lê Thị H1; có vợ Phạm Thị H2 (đã ly hôn) và có 02; tiền án: Năm 2021, bị Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đến ngày 17/11/2022 chấp hành xong hình phạt; tiền sự; Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 04/7/2023 đến nay; có mặt.

2. Võ Trọng H3, tên gọi khác: Không, sinh ngày 01 tháng 6 năm 1988, tại huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; nơi thường trú: Thôn V, xã Q, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Trọng L và bà Nguyễn Thị L1; có vợ Đào Thị Ngọc H4 (đã ly hôn) và có 01; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 04/7/2023 đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 30 ngày 03/7/2023, Công an tỉnh N nhận được tin báo của Ngân hàng TMCP H10 (Sau đây viết tắt là M1), Chi nhánh M1, phòng G, đường T, thuộc phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An về việc: Có 01 nam thanh niên sử dụng 01 chứng minh nhân dân (sau đây viết tắt là CMND) số 184851xxx, mang tên Nguyễn Hồng Q, sinh ngày 29/5/1990, nguyên quán và nơi đăng ký HKTT: xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh đến ngân hàng M1, phòng G1, Chi nhánh M1 để làm thủ tục mở tài khoản ngân hàng. Khi nhân viên ngân hàng kiểm tra CMND nói trên đã phát hiện ảnh trong CMND giống với ảnh của 01 CMND khác mang tên Phan Quốc V mà đối tượng đã sử dụng để mở tài khoản tại một phòng giao dịch khác của M1 tại Nghệ An để chiếm đoạt tiền của MSB nên đã yêu cầu thanh niên này về Cơ quan điều tra để làm việc.

Người này khai tên thật là Nguyễn Thế T, sinh ngày 08/02/1989, trú tại tổ dân phố số A, phường N, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 03/7/2023, T đi nhờ xe máy của anh Hoàng Đức T1, sinh năm 1993, trú tại tổ dân phố D, phường N, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh sang tỉnh Nghệ An để sử dụng CMND giả mở tài khoản ngân hàng thì bị phát hiện bắt giữ. Cùng tham gia sử dụng CMND giả để mở tài khoản ngân hàng rồi bán lại cho “Hùng N” còn có đối tượng Võ Trọng H3, sinh năm 1988, trú tại thôn V, xã Q, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh.

Căn cứ lời khai của Nguyễn Thế T, ngày 03/7/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh N đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thế T và Võ Trọng H3. Quá trình khám xét đã thu giữ các vật chứng sau đây:

Thu của Nguyễn Thế T: 01 điện thoại di động hiệu Galaxy A30s màu xanh ngọc lam; số IMEL1: 358544105659036; số IMEL2: 358545105659033 gắn thỏ sim 03376140xx và 03796432xx;

T2 tại nhà Nguyễn Thế T 40 (Bốn mươi) chứng minh nhân dân; 01 thẻ ngân hàng A1; 01 thẻ ngân hàng OCB; 01 thẻ khách hàng V1 (VCB) mang tên Nguyễn Hồng Q; 03 thẻ tài khoản ngân hàng; 06 thẻ sim 4G Viettel; 01 thẻ sim 4G Mobiphone; 04 tờ giấy; 01 quyển số tay; 01 bì thư do Bưu điện V2 phát hành và 01 thẻ ngân hàng T4 mang tên Võ Trọng H3 ( chi tiết cụ thể được phản ảnh tại BL số 07-08).

T2 tại nhà Võ Trọng H3: 01 CMND số 1329728xx mang tên Ngô Sỹ N1; 01 thẻ ngân hàng T4 số 4221498699687076 mang tên Võ Trọng H3; và 01 điện thoại di động hiệu OPPO A32 màu xanh, đã cũ, số IMEL1: 866585053521012, số IMEL2: 866585053521004, lắp sim 09448329xx.

Tại Cơ quan điều tra, các đối tượng khai nhận: Nguyễn Thế T là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm. T quen Lê Minh Đ, sinh năm 1988, trú tại khối C phường N, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh. Vào khoảng tháng 5 năm 2023, Lê Minh Đ giới thiệu cho T biết việc làm tài khoản ngân hàng đề bán cho đại lý game trên mạng và giới thiệu T với một người có tài khoản trên ứng dụng Telegram là “Hùng N” (nhưng chưa xác định được nhân thân lai lịch cụ thể) để T tự liên hệ. Sau khi nhắn tin nói chuyện, T được “Hùng N” hướng dẫn chụp các ảnh chân dung của T, kích cỡ (3x4)cm rồi gửi qua tài khoản Telegram cho “Hùng N” kèm theo thông tin địa chỉ để nhận về chứng minh nhân dân (sau đây viết tắt là CMND) mang tên người khác, nhưng dán ảnh của Nguyễn Thế T. Khi nhận được CMND thì T biết đây là CMND giả, “Hùng N” yêu cầu T mua sim điện thoại không đăng ký chính chủ rồi đến các Chi nhánh ngân hàng trên địa bàn các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa đề mở tài khoản ngân hàng, sau đó chuyển lại mật khẩu, mã OTP kích hoạt lần đầu của tài khoản ngân hàng lập được cho “Hùng N”. Mỗi tài khoản “Hùng N” trả cho T số tiền 1.000.000 đồng. Để tạo được nhiều tài khoản ngân hàng giả, "Hùng N" nói T rủ thêm người khác tham gia. Mỗi một người mới tham gia mở tài khoản ngân hàng bằng CMND giả thì T được hưởng thêm 500.000 đồng/1 tài khoản. Do đó, T đã rủ Võ Trọng H3, sinh năm 1988, trú tại thôn V, xã Q, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh (là bạn học cấp 3 với T) cùng tham gia làm với phương thức thủ đoạn như trên. Tuy nhiên, do H3 mới tham gia nên T không nhận số tiền 500.000 đồng mà T được hưởng (T cho H3 số tiền này). Vì vậy, mỗi tài khoản ngân hàng H11 làm được, T trả cho H3 1.500.000 đồng gồm 1.000.000 đồng là của “Hùng N” trả và 500.000 đồng là tiền công “Hùng N” trả cho T.

Sau khi sử dụng CMND giả đăng ký thành công tài khoản ngân hàng thì T báo cho “Hùng N” biết. Vì sim điện thoại mà T sử dụng để đăng ký tài khoản ngân hàng bắt buộc phải “cắt” để chuyển cho “Hùng N” nên “Hùng N” yêu cầu T phải chuyển sim điện thoại cho Lê Văn L2, trú tại xóm C, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Do T không gửi sim qua bưu điện nên Lê Văn L2 hướng dẫn T sử dụng sim điện thoại đã đăng ký tài khoản banking, gọi điện và nhắn tin vào số điện thoại số thuê bao 09796896xx của L2 , chụp ảnh và gửi số seri sim cho L2 để L2 làm thủ tục thu hồi.

Bằng phương thức thủ đoạn nêu trên, từ tháng 5 năm 2023 đến ngày 3 tháng 7 năm 2023, Nguyễn Thế T đã mở và bán 12 tài khoản ngân hàng giả cho “H5 Nguyễn”, thu lợi bất chính số tiền 12.000.000 đồng, cụ thể: Sử dụng CMND giả mang tên Phan Quốc V, số 122908116 mở các tài khoản ngân hàng M1 Chi nhánh tỉnh M1, S Chi nhánh tỉnh M1, V3 Chi nhánh M1, VCB Chi nhánh B, A2 Chi nhánh tỉnh M1; Sử dụng CMND giả mang tên Hoàng Văn M, số 1229213xx mở tài khoản tại ngân hàng V4 Chi nhánh tỉnh M1; Sử dụng CMND mang tên Huỳnh Bá N2, số 1229871xx lập tài khoản tại ngân hàng V4 Chi nhánh B; Sử dụng CMND giả mang tên Nguyễn Tuấn A, số 18481xxxx mở tài khoản ngân hàng A3 Chi nhánh tỉnh B; S Chi nhánh tỉnh M1; S1 Chi nhánh tỉnh M1; VCB Chi nhánh B; Sử dụng CMND giả mang tên Nguyễn Tuấn A, số 184976161 mở tài khoản ngân hàng S2 Chi nhánh tỉnh M1.

Võ Trọng H3 đã mở và đưa cho Nguyễn Thế T 07 (Bảy) tài khoản ngân hàng để T bán cho “Hùng Nguyễn”, thu lợi bất chính số tiền 10.500.000 đồng, cụ thể: Sử dụng CMND giả mang tên Nguyễn Văn C, số 112967204 mở tài khoản tại ngân hàng V4 Chi nhánh B và S Chi nhánh M1; Sử dụng CMND giả mang tên Nguyễn Đức H6, số 1849032xx mở tài khoản tại ngân hàng M1 Chi nhánh M1; Sử dụng CMND giả mang tên Ngô Sỹ N1, số 1329541xx mở tài khoản Online tại ngân hàng V5 và S2; Sử dụng CMND giả mang tên Nguyễn Văn H7, số 1329072xx mở tài khoản tại ngân hàng S Chi nhánh tỉnh T; ngân hàng V4 Chi nhánh tỉnh T.

Toàn bộ giao dịch mua bán tài khoản được các đối tượng thanh toán qua hình thức chuyển khoản ngân hàng. Đối tượng “Hùng N” sử dụng tài khoản ngân hàng S3, số I (Đây là số tài khoản ngân hàng được T làm và bán cho “Hùng N”), Nguyễn Thế T sử dụng tài khoản ngân hàng M2, số H và ngân hàng V1 số 06410000325xx mang tên Nguyễn Thế T. H3 sử dụng tài khoản ngân hàng V1, số A mang tên Võ Trọng H3 Đối với hai tài khoản ngân hàng được mở tại ngân hàng M1 bằng CMND của Phan Quốc V và Nguyễn Đức H6: Sau khi bán cho “Hùng N” đã được đối tượng Dương Minh T3, sinh năm 1996, trú tại phường A, quận T, thành phố Hồ Chí Minh mua và sử dụng để thực hiện hành vi đăng nhập vào hệ thống quản lý điện tử của ngân hàng M1 chiếm đoạt tổng số tiền 1.934.417.855 đồng (Một tỷ chín trăm ba mươi tư triệu bốn trăm mười bảy nghìn tám trăm năm mươi lăm đồng). Dương Minh T3 đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H khởi tố bị can, tạm giam về tội “Sử dụng mạng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh N đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Minh Đ, sinh năm 1988, nơi thường trú: khối c phường N, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh, nơi ở hiện tại: Tổ dân phố B, phường B, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh nhưng không thu giữ được tài liệu, đồ vật gì liên quan đến vụ án.

Thi hành Lệnh khám xét nơi ở của Lê Văn L2, sinh năm 1990, trú tại xóm C, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh N thu giữ 01 điện thoại Iphone 14 Promax màu Gold, số IMEILS51651523142679, số IMEL2:S51651523178182, lắp sim 09796896xx.

L2 khai: Bản thân L2 làm nghề kinh doanh về sim thẻ điện thoại (mua, bán, cho thuê sim, chuẩn hóa thông tin các loại sim điện thoại) tại nhà bố mẹ đẻ ở xóm C, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Quá trình kinh doanh qua mạng xã hội Telegram, L2 chỉ sử dụng 01 tài khoản duy nhất là @Lamsim09796896xx. Khi khách có nhu cầu mua sim, thuê sim, cấp lại sim điện thoại ... thì L2 thực hiện theo yêu cầu của khách hàng. L2 không biết “Hùng N”, Nguyễn Thế T là ai, cũng không biết được công việc cụ thể của những người này. L2 chỉ làm thủ tục thu hồi sim và cấp lại sim cho họ rồi thu phí như những khách hàng bình thường khác.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh N đã trưng cầu giám định các giấy CMND đã thu giữ của Nguyễn Thế T và Võ Trọng H3.

Kết luận giám định số 273 /KL-KTHS(Đ3-TL) ngày 11/7/2023 của Phòng K Công an tỉnh N, kết luận:

“39 (ba mươi chín) “GIẤY CHỨNG MINH NHÂN DÂN” ký hiệu từ A1 đến A39 là giả.

Phôi “GIẤY CHỨNG MINH NHÂN DÂN” ký hiệu A40, A41 so đúng với phôi “GIẤY CHỨNG MINH NHÂN DÂN” lưu tại Phòng K, Công an tỉnh N.

Hình dấu tròn có nội dung “CÔNG AN TỈNH NGHỆ AN” trên 02 “GIẤY CHỨNG MINH NHÂN DÂN” ký hiệu A40, A41 so với hình dấu tròn có nội dung “CÔNG AN TỈNH NGHỆ AN” lưu tại Phòng K, Công an tỉnh N là do cùng một con dấu đóng ra.

Hình dấu chữ ký mang tên Nguyễn Xuân L3 trên “GIẤY CHỨNG MINH NHÂN DÂN” ký hiệu A40 so với hình dấu chữ ký của đồng chí Nguyễn Xuân L3 lưu tại Phòng K, Công an tỉnh N là do cùng một con dấu đóng ra.

Hình dấu chữ ký mang tên Võ Trọng H8 trên “GIẤY CHỨNG MINH NHÂN DÂN” ký hiệu A41 so với hình dấu chữ ký của đồng chí Võ Trọng Hải lưu tại Phòng K, Công an tỉnh N là do cùng một con dấu đóng ra.

Hình dấu tên “Nguyễn Xuân L3” trên “GIẤY CHỨNG MINH NHÂN DÂN” ký hiệu A40 so với hình dấu tên “Nguyễn Xuân L3” lưu tại Phòng K, Công an tỉnh N là do cùng một con dấu đóng ra.

Hình dấu tên “Võ Trọng H8” trên “GIẤY CHỦNG MINH NHÂN DÂN” ký hiệu A41 so với hình dấu tên “Võ Trọng H8” lưu tại Phòng K, Công an tỉnh N là do cùng một con dấu đóng ra.

02 (hai) “GIẤY CHỨNG MINH NHÂN DÂN” ký hiệu A40, A41 bị mất ảnh.

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

41 (Bốn mươi mốt) chứng minh nhân dân (trong đó thu của Nguyễn Thế T là 40 cái, thu của Võ Trọng H3 01 cái); 04 thẻ ngân hàng các loại (thu của T 03, thu của H3 01) 07 thẻ sim điện thoại; 04 tờ giấy; 01 quyền số tay; 01 bì thư do Bưu điện V2 phát hành và 02 điện thoại di động các loại.

Vật chứng là các CMND, 04 tờ giấy, 01 quyển sổ tay và 01 bì thư được chuyển theo hồ sơ vụ án.

Các vật chứng là điện thoại di động, thẻ ngân hàng, thẻ sim điện thoại hiện đang bảo quản tại kho vật chứng PC 10 Công an tỉnh N.

Chiếc điện thoại Iphone 14Promax màu vàng, số IMEI 1:351651523172679; Số IMEI 2:351651523718182, lắp sim số thuê bao 09796896xx thu giữ của Lê Văn L2: Do không liên quan đến hành vi phạm tội nên đã trả lại cho chủ sở hữu.

Tại Bản cáo trạng số 182/CT-VKS-P1 ngày 23 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An đã truy tố: Nguyễn Thế T và Vồ Trọng H3 về “Tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức” theo quy định tại các điểm b, đ khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của các bị cáo và giữ nguyên quan điểm như đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b, đ khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thế T từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 04/7/2023.

Căn cứ điểm b, đ khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Võ Trọng H3 từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù đến 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 04/7/2023.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Galaxy A30s màu xanh ngọc lam thu tại Nguyễn Thế T và 01 điện thoại di động hiệu OPPO A32 màu xanh, thu tại V. Các vật chứng khác lưu tại hồ sơ vụ án.

Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và không có tranh luận gì về tội danh. Các bị cáo trình bày do hoàn cảnh gia đình khó khăn và không am hiểu pháp luật nên phạm tội, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh N, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thế T và Võ Trọng H3 hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hành vi của các bị cáo được thể hiện: Thông qua mạng xã hội Telegram, Nguyễn Thế T biết đối tượng có tài khoản “Hùng N” hứa sẽ mua các thẻ ngân hàng của T với giá 1.000.000 đồng/01 thẻ. Để làm được nhiều thẻ ngân hàng thì T đã rủ Võ Trọng H3 làm cùng. T trả cho H3 1.500.000 đồng/01 tài khoản. T và H3 chụp ảnh chân dung của mình rồi gửi cho “Hùng N” thì được “Hùng N” gửi qua đường bưu điện cho T 41 chứng minh nhân dân (trong đó 25 cái dán ảnh của Nguyễn Thế T; 11 cái dán ảnh của Võ Trọng H3, 02 cái dán ảnh của 01 đối tượng chưa xác định được và 03 cái không có ảnh) nhưng thông tin lại của người khác. Trong khoảng thời gian từ đầu tháng 5 năm 2023 đến ngày 03 tháng 7 năm 2023, Nguyễn Thế T đã sử dụng chứng minh nhân dân giả mở 12 tài khoản ngân hàng và bán cho đối tượng “Hùng N” thu lợi bất chính 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng). Võ Trọng H3 đã sử dụng chứng minh nhân dân giả mở 07 tài khoản ngân hàng và đưa cho Nguyễn Thế T để T bán cho “Hùng N” thu lợi bất chính 10.500.000 đồng (Mười triệu năm trăm nghìn đồng).

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo là phù hợp với lời khai của những người liên quan, người làm chứng, các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ đề kết luận: Nguyễn Thế T và Võ Trọng H3 đã có hành vi sử dụng Tài liệu giả để lừa dối cơ quan, tổ chức nhằm thu lợi bất chính. Các bị cáo phạm tội nhiều lần, thu lợi bất chính từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Hành vi đó đã phạm vào tội “Tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức” theo quy định tại các điểm b, đ khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự, đúng như bản cáo trạng đã truy tố các bị cáo.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của cơ quan, tổ chức Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước về tài liệu, giấy tờ. Về mặt chủ quan, các bị cáo biết được hành vi sử dụng CMND giả để mở tài khoản ngân hàng là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích vụ lợi nên vẫn thực hiện. Hành vi đó làm ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng, làm tiền đề cho các đối tượng phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Do đó cần xử lý nghiêm để phòng ngừa chung.

Vụ án có 2 bị cáo tham gia, thuộc loại đồng phạm giản đơn. Trong đó Nguyễn Thế T giữ vai trò chính, là người trực tiếp liên lạc đối tượng có tài khoản “Hùng N” để thực hiện hành vi phạm tội và là người khởi xướng, rủ rê Võ Trọng H3 đề cùng phạm tội. Nguyễn Thế T sử dụng nhiều lần giấy tờ giả và thu lợi bất chính số tiền lớn hơn so với Võ Trọng H3, do đó Nguyễn Thế T phải chịu mức hình phạt cao hơn Võ Trọng H3.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Thế T phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; bị cáo Võ Trọng H3 không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Nguyễn Thế T khai báo thành khẩn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo Võ Trọng H3 thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có bố đẻ là thương binh và được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng 3 nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Đối với các hành vi, đối tượng có liên quan đến vụ án:

Hoàng Đức T1 là người đi cùng Nguyễn Thế T vào chiều ngày 03/7/2023 từ tỉnh Hà Tĩnh sang tỉnh Nghệ An, cho T đi nhờ xe, không biết được hành vi phạm tội của T;

Đối với Lê Minh Đ, quá trình điều tra xác định: Đ biết đối tượng có tài khoản Telegram “Hùng N” qua mạng xã hội và biết đối tượng này mua tài khoản ngân hàng giả đánh bạc trên mạng, nên đã giới thiệu cho Nguyễn Thế T, còn việc T và “Hùng N” bàn bạc, thỏa thuận với nhau thế nào thì Đ không được biết. Đ cũng không tham gia phạm tội cùng T, không hưởng lợi gì từ hành vi phạm tội của T;

Đối với Lê Văn L2: là người kinh doanh về sim thẻ điện thoại (mua, bán, cho thuê sim, chuẩn hóa thông tin các loại sim điện thoại). Quá trình kinh doanh qua mạng xã hội thì khi khách có nhu cầu mua sim, thuê sim, cấp lại sim điện thoại ... thì L2 thực hiện theo yêu cầu của khách hàng để nhận tiền công. L2 không quen biết “Hùng N” và Nguyễn Thế T là ai, cũng không biết được công việc cụ thể của những người này.

Do đó không có căn cứ để xử lý đối với ba đối tượng nêu trên.

Đối với Dương Minh T3, sinh năm 1996, trú tại phường A, quận T, thành phố Hồ Chí Minh mua và sử dụng 02 tài khoản ngân hàng được mở tại ngân hàng M1 bằng CMND của Phan Quốc V và Trần Đức H9: Do đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H khởi tố điều tra về tội “Sử dụng mạng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh N đã ra quyết định tách hành vi và tài liệu liên quan đối với Dương Minh T3 để chuyền đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H điều tra xử lý theo thẩm quyền là có căn cứ.

[6] Về xử lý vật chứng vụ án: 41 (Bốn mươi mốt) Chứng minh nhân dân (trong đó thu của Nguyễn Thế T là 40 cái, thu của Võ Trọng H3 01 cái); 04 thẻ ngân hàng các loại (thu của T 03, thu của H3 01), 07 thẻ sim điện thoại; 04 tờ giấy; 01 quyển số tay; 01 bì thu do Bưu điện V2 phát hành và 02 điện thoại di động các loại Vật chứng là các CMND, 04 tờ giấy, 01 quyển sổ tay và 01 bì thư được chuyển theo hồ sơ vụ án.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Galaxy A30s màu xanh ngọc lam thu tại Nguyễn Thế T và 01 điện thoại di động hiệu OPPO A32 màu xanh, đã cũ, thu tại Võ Trọng H3 là công cụ phương tiện phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thế T và Võ Trọng H3 phạm tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức” .

2. Căn cứ các điểm b, đ khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thế T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 04/7/2023.

Căn cứ điểm các b, đ khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Võ Trọng H3 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 04/7/2023.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu sung quỹ Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động nhăn hiệu Galaxy A30s, màu xanh ngọc lam, số IMEI 1: 358544105659036; sổ IMEI 2: 358545105659033. Trong máy lắp hai số thuê bao: 03376140xx và 03796432xx;

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A32, màu xanh, số IMEI 1: 866585053521012; số IMEI 2: 8665850535221004. Trong máy lắp sim số thuê bao: 09448329xx.

Đặc điểm vật chứng thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/11/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh N và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Nguyễn Thế T và Võ Trọng H3 mỗi người phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Các bị cáo Nguyễn Thế T, Võ Trọng H3 có quyền kháng cáo Bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức số 23/2024/HS-ST

Số hiệu:23/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về