Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng giả số 842/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 842/2023/HS-PT NGÀY 03/11/2023 VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ

Trong các ngày 27 tháng 10 và ngày 03 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 909/2022/TLPT-HS ngày 15 tháng 12 năm 2022 đối với các bị cáo Trần Trí M, Hồng Mỹ T, Chu Đình Thiện T1, Nguyễn Văn C, Trần Kỳ N do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2022/HSST ngày 04/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Trí M, sinh ngày 30 tháng 6 năm 1980; Nơi sinh: Huyện C, tỉnh Hậu Giang; Nơi cư trú: Số I, đường N, khóm F, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Mua bán; Cha: Trần H, sinh năm 1952; Mẹ: Lê Thị Thanh V, sinh năm 1950; Bị cáo là con một trong gia đình; Vợ: Hồng Mỹ T, sinh năm 1984 (Bị cáo trong vụ án); Có 02 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2013.

Quá trình nhân thân:

Từ nhỏ sống chung với cha mẹ, học đến lớp 12 thì nghỉ học.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/3/2021 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh A.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2/ Hồng Mỹ T, sinh ngày 19 tháng 02 năm 1984; Nơi sinh: Huyện L, tỉnh Hậu Giang; Nơi cư trú: số I, đường N, khóm F, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Mua bán; Cha: Hồng Minh H1, sinh năm 1947; Mẹ: Phạm Thị M1, sinh năm 1953; A, chị, em: Có 03 người, bị cáo là người thứ 3; Chồng: Trần Trí M, sinh năm 1980 (Bị cáo trong vụ án); Có 02 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2013.

Quá trình nhân thân:

Từ nhỏ sống chung với cha mẹ, học đến lớp 12 thì nghỉ học.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/11/2021 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh A.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3/ Chu Đình Thiện T1, sinh ngày 25 tháng 10 năm 1992; Nơi sinh: TP Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: B, N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: số E, T, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo phật; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Cha: Chu Đình T2, sinh năm 1970; Mẹ: Nguyễn Thị Ngọc T3, sinh năm 1972; Bị cáo là con một trong gia đình; Vợ: Hà Thị Kim T4, sinh năm 1992; Con: C, sinh ngày 04/6/2020.

Quá trình nhân thân:

Từ nhỏ sống chung với cha mẹ tại khu phố E, Phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, học đến lớp 11 thì nghỉ học. Năm 2019 lập gia đình và sống tại số E, T, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4/ Nguvễn Văn C, sinh ngày 15 tháng 9 năm 1994; Nơi sinh: Huyện C, tỉnh An Giang; Nơi cư trú: Ấp C, xã C, huyện C, tỉnh An Giang; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo phật; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Cha: Nguyễn Văn L, sinh năm 1972; Mẹ: Dương Thị Nghe N1, sinh năm 1974; A, chị, em: Có 03 người, bị cáo là người thứ nhất; Bị cáo chưa có vợ, con.

Quá trình nhân thân:

Từ nhỏ sống chung với cha mẹ, học đến lớp 6 thì nghỉ học.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

5/ Trần Kỳ N, sinh ngày 19 tháng 8 năm 1984; Nơi sinh: Thành phố C, tỉnh An Giang; Nơi cư trú: số I, tuyến dân cư Kênh A, ấp M, xã V, thành phố C, tỉnh An Giang; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo phật; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Cha: Trần Công T5 (chết); Mẹ: Trần Thị T6, sinh năm 1946; A, chị, em: Có 6 người, bị cáo là người thứ 6.

Quá trình nhân thân:

Từ nhỏ sống chung với cha mẹ, học đến lớp 12 thì nghỉ học.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa:

* Người bào chữa theo yêu cầu cho bị cáo Trần Trí M:

1. Luật sư Hồ Hoàng P, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh A (có mặt).

2. Luật sư Nguyễn Ngọc C1, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh A (có mặt).

3. Luật sư Nguyễn Thanh Đ, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).

* Người bào chữa theo yêu cầu cho bị cáo Hồng Mỹ T:

1. Luật sư Trần Trọng H2, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (vắng mặt)

2. Luật sư Nguyễn Văn H3, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo: Ngân hàng Q2 có người đại diện là ông Trần Văn T7, Địa chỉ: số A trung tâm thương mại C5 khu vực A, phường H, quận C, Thành phố Cần Thơ (có mặt).

(Ngoài ra trong vụ án còn có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo nên không triệu tập)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2018, Trần Trí M thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn T16 (gọi tắt là Công ty T16), kinh doanh phụ tùng xe gắn máy và dầu nhớt các loại, do M làm giám đốc, Hồng Mỹ T (vợ M) giúp Mãnh điều hành, quản lý Công ty trong việc nhận hàng, kiểm tra việc giao hàng, thu chi tiền hàng hóa mua bán.

Quá trình kinh doanh phụ tùng xe gắn máy và dầu nhớt, M thấy phụ tùng xe gắn máy nhãn hiệu Honda, Y và dầu nhớt C2, K, S được người tiêu dùng ưa chuộng và sử dụng nhiều hơn các thương hiệu khác nên đã nảy sinh ý định mua phụ tùng xe gắn máy giả nhãn hiệu Honda, Y và dầu nhớt giả các thương hiệu nổi tiếng Castrol, K, S về bán lại với giá thấp hơn hàng chính hãng nhằm thu lợi. Mãnh đến chợ T17 và chợ K3 thuộc Thành phố Hồ Chí Minh mua các phụ tùng xe gắn máy giả hiệu Honda, Y (được đựng trong túi nylon, trên túi có in chữ Yamaha, Honda có dán mác in mã sản phẩm), dầu nhớt giả các thương hiệu nổi tiếng Castrol, BP, Shell của những người tên Vũ T8, Trâm M2, Mai S1, H4, Hòa C3, Kim A, L1, K1, B, V1 (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) đem về đóng gói, bán ra thị trường với giá thấp hơn hàng chính hãng từ 10% - 15% để thu lợi. Để thực hiện, M kêu T giúp M đặt mua nhớt giả nhãn hiệu Kubota, C2, S và chuyển tiền mua bán hàng, quản lý Công ty khi M đi vắng.

Đối với phụ tùng xe gắn máy không nhãn hiệu, M thuê Nguyễn Hữu V2 (chủ cơ sở in ấn bao bì giấy “T" địa chỉ khu phố A, Quốc lộ A, Phường B, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh) in các tem, nhãn, vỏ hộp giả nhãn hiệu Honda, Y rồi gửi qua xe khách cho M. Sau khi nhận được các tem, nhãn, vỏ hộp giả nhãn hiệu Honda, Y, M chỉ đạo Nguyễn Văn C và hai đối tượng tên Đặng Văn K2, H4 (là nhân viên quản lý, xử lý kho phụ tùng xe gắn máy) sắp xếp hàng hóa phụ tùng xe gắn máy không nhãn hiệu vào hộp, đóng gói để đưa cho nhân viên giao hàng là Võ Thế C4, Nguyễn Phi P1, Phạm Phương Đ1, Trần Phú P2, Hà Hoàng L2, Lê Thanh S2, Lâm Văn D, Nguyễn Hoàng H5, Trần Công T9, Dương Ngọc T10, Lưu Bình T11, Lê Văn T12 đem bán cho các cửa hàng trên địa bàn tỉnh An Giang và ngoài tỉnh. Đồng thời, M còn đặt mua một số loại phụ tùng xe gắn máy chính hãng H7, Yamaha của Công ty TNHH TI8 để bán cùng các loại phụ tùng giả nhãn hiệu Honda, Yamaha nhằm tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng.

Đối với nhớt hiệu Kubota, M và T khai, đặt mua của Nguyễn Văn N2, Trần Quang N3, do nhớt K không có tem xác nhận hàng Kubota chính hãng nên M lên các trang Web tìm mẫu tem rồi chỉ đạo cho Chu Đình Thiện T1 (nhân viên quản lý, thiết kế quảng cáo các trang Web của Công ty T16) thiết kế mẫu tem xác nhận hàng chính hãng (có ghi các dãy chữ, số cùng số điện thoại của tổng đài 6020 ở Thành phố Hồ Chí Minh, khi khách hàng cào lớp vỏ bạc nhắn tin dãy số và chữ trên tem thì tổng đài sẽ trả lời đó là hàng chính hãng), và thuê Nhiều in mẫu tem cho M. Sau đó, M và T chỉ đạo cho Trần Kỳ N (nhân viên quản lý kho nhớt) dán số tem trên vào các thùng nhớt K, đồng thời N còn nhờ Tạ Công T13, Phan Văn Q tiếp giúp dán tem khi xuất giao cho khách hàng, nhưng T13, Q không biết là các tem giả.

Với cách thức trên, từ khoảng 6/2019 đến tháng 3/2021, M, T nhiều lần mua nhớt, phụ tùng xe gắn máy giả nhãn hiệu, giả chất lượng với số lượng lớn (không nhớ rõ số lượng, trị giá hàng hóa) đem về Công ty đóng gói, dán tem giả bán ra thị trường thu lợi khoảng 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng. Ngày 02/3/2021, hành vi của M bị phát hiện và M đến Công an đầu thú. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh A tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Trí M tại Công ty TNHH T16 ngụ phường C, phường C B, thành phố C, tỉnh An Giang thu giữ 288 thùng nhớt Kubota loại UDT và DEO 10L và 20L; 846 chai nhớt (hiệu Castrol Power 1 Scooter; Castrol A Vistra 20W-50 4T); 12 thùng nhớt hiệu Vanellus 20W- 50 loại 20L; 02 phuy nhớt hiệu Castrol Turbomax 15W-40 CI-4 loại 209 lít; 01 phuy nhớt hiệu Hyspin AWS 68 loại 209 lít); 28 thùng nhớt Shell Rimula R1 20W-50, R4 20W-50, R2 15W-40, R4 15W-40, loại 18 lít; 545 tem, nhãn xác nhận hàng Kubota chính hãng; 1392 tem dán trên các phụ tùng xe gắn máy hiệu Honda, Y. Ngoài ra, còn thu giữ 03 cây kiếm, 01 cây dao, 01 cây súng, 8.000 USD cùng nhiều hàng hóa là phụ tùng xe gắn máy, dầu nhớt các loại và nhiều vật chứng khác có liên quan.

Ngày 11/3/2021, 25/11/2021, 13/12/2021 M, T, T1, C, N bị khởi tố điều tra.

* Căn cứ Kết luận giám định số 1517/C09B ngày 11/3/2021 và 18/11/2021; Số 1789 ngày 27/4/2021 và Công văn số 747 ngày 27/10/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

- 288 (hai trăm tám mươi tám) thùng nhớt Kubota loại UDT và DEO 10L và 20L gửi giám định có thành phần hóa học khác nhau.

- 177 (một trăm bảy mươi bảy) chai nhớt hiệu Castrol Power 1 Scooter 10W- 40 4-AT loại 800ml (ký hiệu CA.MGĐ E) có độ nhớt động học ở 100°C tỷ lệ đạt được 66,34%; trị số kiềm tổng 25,93%; tổng hàm lượng kim loại (Ca, M, Z) 45,25%.

- 289 (hai trăm tám mươi chín) chai nhớt Castrol Power 1 Scooter 10W-40 loại 1L (ký hiệu CA.MGĐ F) có độ nhớt động học ở 100°C tỷ lệ đạt được 68,44%; trị số kiềm tổng 31,43%; tổng hàm lượng kim loại (Ca, M, Z) 49,49%.

- 260 (Hai trăm sáu mươi) chai nhớt Castrol Activ Vistra 20W-50 4T loại 1L (ký hiệu CA.MGĐ G) có độ nhớt động học ở 100°C tỷ lệ đạt được 50,92%; trị số kiềm tổng 35,48%; tổng hàm lượng kim loại (Ca, M, Z) 39,15%.

- 120 (một trăm hai mươi) chai nhớt Castrol Activ 20W-40 4T loại 1L (ký hiệu CA.MGĐ K) có trị số kiềm tổng 64,29%; tổng hàm lượng kim loại (Ca, M, Z) 55,5%.

- 12 (mười hai) thùng nhớt Vanellus 20W-50, loại 20L (ký hiệu CA.MGĐ VA) có trị số kiềm tổng 6,25%; tổng hàm lượng kim loại (Ca, M, Z) 13,13%.

- 02 (hai) phuy nhớt Castrol Turbomax 15W-40 CI-4 loại 209 lít và 01 phuy Hyspin AWS 68 loại 209 lít (ký hiệu MGĐ.Can 1, MGĐ.Can 2, MGĐ.Can 3, MGĐ.Can 4, MGĐ.Can 5) có trị số kiềm tổng 38,55%; tổng hàm lượng kim loại (Ca, M, Z) 39,71%.

- 28 (hai mươi tám) thùng nhớt Shell Rimula R1 20W-50, R4 20W-50, R2 15W-40, R4 15W-40, loại 18 lít, có thành phần hóa học khác với các mẫu nhớt nhãn hiệu Shell Rimula cùng loại.

* Căn cứ Kết luận giám định số 122, 132, 143, 150 ngày 12/9/2021, 15/10/2021, 13/12/2021 và 15/12/2021 của Phòng K4 Công an tỉnh A, kết luận:

- 1392 (một nghìn ba trăm chín mươi hai) tem dán trên các bộ má phanh, bộ C6, bộ khóa điện, nhông trước, nhông sau, hộp xích tải, đĩa ma sát ly hợp, bộ má phanh sau, cụm dây điện, tấm lọc khí, cần phanh sau, bộ dây ga, bộ giảm xóc sau, lò xo ly hợp, ống giảm xóc trước hiệu Honda, Y không phải do cùng một bản in in ra.

- 276 (hai trăm bảy mươi sáu) tem xác nhận hàng Kubota chính hãng dán trên các thùng nhớt Kubota UDT, DEO loại 10 lít và 20 lít cần giám định so với các mẫu tem so sánh không phải do cùng một bản in in ra. 269 nhãn dán trên các thùng nhớt Kubota UDT, DEO loại 10 lít và 20 lít cần giám định so với các nhãn mẫu so sánh không phải do cùng một bản in in ra.

- 22 (hai mươi hai) tem dán trên các thùng nhớt Shell Rimula R2 15W-40, R4 15W - 40, R4 15W-50, R1 15W-50 loại 18 lít cần giám định (ký hiệu từ A1 - A10, A21 - A28, A37, A38, A41, A42) so với các tem mẫu so sánh ký hiệu M1 đến M8 không phải do cùng một bản in in ra. 02 tem cần giám định ký hiệu A45, A46 so với các tem mẫu so sánh ký hiệu M7, M8 do cùng một bản in in ra.

+ 22 (hai mươi hai) nhãn dán trên các thùng nhớt Shell Rimula R2 15W-40, R4 15W -40, R4 15W-50,R1 15W-501oại 18 lít cần giám định (ký hiệu từ A11 -A20, A29 - A36, A39, A40, A43, A44) so với các nhãn mẫu so sánh ký hiệu M9 đến M20 không phải do cùng một bản in in ra. 02 nhãn cần giám định ký hiệu A47, A48 so với các nhãn mẫu so sánh ký hiệu M18 đến M20 do cùng một bản in in ra.

* Căn cứ Kết luận giám định số 2316 ngày 29/4/2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

01 (một) khẩu súng là đồ chơi nguy hiểm, sử dụng khí nén bắn đạn hình cầu đường kính 6mm không phải là vũ khí quân dụng; 03 (ba) cây kiếm, 01 (một) con dao là vũ khí thô sơ.

* Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 25, số 06.8.07, số 01.12.07 ngày 10/3/2021, 13/9/2021 và 09/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh An Giang, kết luận:

+ 288 thùng nhớt hiệu Kubota loại UDT và DEO 10L và 20L, có tổng giá trị 352.834.000 đồng (ba trăm năm mươi hai triệu tám trăm ba mươi tư nghìn đồng).

+ 28 thùng nhớt Shell R1 20W-50, R4 20W-50, R2 15W-40, R4 15W-40 có tổng giá trị 36.625.000 đồng (ba mươi sáu triệu sáu trăm hai mươi lăm nghìn đồng).

+ 02 phuy nhớt Castrol Turbomax 15W-40 CI-4 loại 209 lít; 01 phuy Hyspin AWS 68 loại 209 lít; 177 chai nhớt Castrol Power 1 Scooter 10W40 loại 800ml; 289 chai nhớt Castrol Power 1 Scooter 10W-40 loại 1L; 260 chai nhớt Castrol Activ Vistra 20W-40 4T loại 1L; 120 chai nhớt Castrol Activ 20W-40 4T loại 1L; 12 thùng nhớt Vanellus 20W-50, loại 20L. Tổng giá trị: 134.935.500 đồng (Một trăm ba mươi tư triệu chín trăm ba mươi lăm nghìn năm trăm đồng).

- Số 03.8.07 và 03.12.07/KL-HĐĐG.TTHS ngày 31/8/2021, 21/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh An Giang, kết luận: 1392 phụ tùng xe gắn máy (nhông trước, nhông sau, xích tải, bộ M4, bộ khóa điện, bộ C6, đĩa ma sát ly hợp, bộ má phanh sau, cụm dây điện chính, tấm lọc khí cho xe RS, tấm lọc khí cho xe Air Blade, tấm lọc khí cho xe Vision, cần phanh sau, dây ga, bộ giảm xóc sau, lò xo ly hợp, ống giảm xóc trước hiệu H7, Y, có tổng giá trị 255.112.352 đồng (Hai trăm năm mươi lăm triệu một trăm mười hai nghìn ba trăm năm mươi hai đồng).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 50/2022/HS-ST ngày 04 tháng 11 năm 2022, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang quyết định:

- Áp dụng điểm a khoản 3, 4 Điều 192, khoản 2 Điều 51, Điều 17, điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự;

+ Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Trần Trí M 08 (tám) năm tù về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả”.

Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo bị tạm giam ngày 02/3/2021 (ngày hai tháng ba năm hai nghìn không trăm hai mươi mốt).

+ Hình phạt bổ sung: phạt tiền bị cáo Trần Trí M 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) nộp vào ngân sách nhà nước.

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 192, Điều 17, điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Hồng M3 Thi 07 (bảy) năm tù về tội “Sản xuất, buôn bản hàng giả”.

Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 29/11/2021 (ngày hai chín tháng mười một năm hai nghìn không trăm hai mươi mốt).

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 192, điểm s, t khoản 1,2 Điều 51, Điều 17, điều 58, Điều 54 Bộ luật Hình sự,:

+ Xử phạt bị cáo Chu Đình Thiện T1 02 (hai) năm tù về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả”.

Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 192, điểm s, t khoản 1,2 Điều 51, Điều 17, điều 58, Điều 54 Bộ luật Hình sự;

+ Xử phạt bị cáo Nguvễn Văn C 02 (hai) năm tù về tội “Sản xuất, buôn bản hàng giả”.

Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 192, điểm s, t khoản 1,2 Điều 51, Điều 17, điều 58, Điều 54 Bộ luật Hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Trần Kỳ N 01 năm 06 tháng (một năm sáu tháng) tù về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả”.

Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 10/11/2022, bị cáo Trần Trí M kháng cáo kêu oan.

Ngày 09/12/2022, bị cáo Hồng Mỹ T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 09/11/2022, bị cáo Chu Đình Thiện T1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

Ngày 07/11/2022, bị cáo Nguyễn Văn C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

Ngày 07/11/2022, bị cáo Trần Kỳ N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

Ngày 15/11/2022, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Ngân hàng TMCP Q2 kháng cáo về phần xử lý vật chứng là xe ô tô biển số 67C - 101.xx.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

1. Phần xét hỏi:

1.1. Bị cáo Trần Trí M giữ nguyên kháng cáo kêu oan và trình bày: Bị cáo không phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả, bị cáo chỉ nhập những mặt hàng thay thế cho hàng chính hãng để bán lại với giá rẻ hơn cho người tiêu dùng. Cơ quan điều tra có vi phạm trong việc khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật, niêm phong đồ vật tạm giữ, việc giám định và định giá hàng hóa không đúng quy định. Tòa án cấp sơ thẩm xác định các xe ô tô là vật chứng vụ án và tịch thu là không đúng. Đề nghị HĐXX trả lại cho bị cáo và Công ty T16, trả lại cho bị cáo số tiền 100.000.000 đồng và 8.000 USD để bị cáo trả lại cho ba, mẹ vì đây là tài sản riêng của ba, mẹ bị cáo mà bị cáo chỉ giữ giùm. Cơ quan điều tra có vi phạm thủ tục khi thu giữ tang vật là các hàng hóa có hóa đơn, chứng từ có niên hạn sử dụng ngắn hơn 01 năm, gây thiệt hại cho bị cáo khoảng 10 tỷ đồng. Ngoài ra, bị cáo xuất trình tình tiết mới là sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã nộp tiền phạt bổ sung là 50.000.000 đồng và nộp lại tiền thu lợi bất chính là 30.000.000 đồng do em của của bị cáo là Hồng Mỹ U nộp thay, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

1.2. Bị cáo Hồng Mỹ T giữ nguyên kháng cáo và trình bày: Đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo là lao động chính trong gia đình nuôi 02 con nhỏ và chăm sóc cha mẹ chồng già yếu trên 70 tuổi. Bị cáo xin xuất trình thêm một số tình tiết giảm nhẹ mới để HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

1.3. Bị cáo Chu Đình Thiện T1 giữ nguyên kháng cáo và trình bày: Đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo vì bị cáo đã rất ăn năn, hối cải, tích cực hợp tác với cơ quan điều tra, bị cáo chỉ là người làm công ăn lương, bị lệ thuộc vào người chủ, hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, bị cáo là lao động duy nhất trong gia đình. Bị cáo xuất trình thêm tình tiết mới là sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã đóng tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng và tạm đóng tiền khắc phục hậu quả số tiền 50.000.000 đồng.

1.4. Các bị cáo Nguyễn Văn C, Trần Kỳ N giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

1.5. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo - Ngân hàng Q2 trình bày: Xe ô tô biển số 67C - 101.xx màu xám ghi, nhãn hiệu Ford đã được Trần Trí M thế chấp cho Ngân Hàng Q2, đã được đăng ký giao dịch đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật. Hiện nay, Trần Trí M đã vi phạm Hợp đồng tín dụng nên đề nghị HĐXX tuyên giao trả xe ô tô này cho Ngân hàng Ngân hàng xử lý, thu hồi nợ, đảm quyền lợi, lợi ích hợp pháp của Ngân hàng.

2. Phần tranh luận Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Trần Trí M, Hồ N phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Xét xử các bị cáo Chu Đình Thiện T1, Nguyễn Văn C, Trần Kỳ N phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo nên hình phạt 08 (tám) đối với bị cáo Trần Trí M, hình phạt 07 (bảy) năm tù đối với bị cáo Hồng Mỹ T, hình phạt 02 (hai) năm tù đối với bị cáo Chu Đình Thiện T1, hình phạt 02 (hai) năm tù đối với bị cáo Nguyễn Văn C, hình phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đối với bị cáo Trần Kỳ N về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra. Bị cáo Trần Trí M kháng cáo kêu oan là không có cơ sở. Các bị cáo Nguyễn Văn C, Trần Kỳ N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ mới. Các bị cáo Trần Trí M, Hồng Mỹ T, Chu Đình Thiện T1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, tại cấp phúc thẩm các bị cáo M, T, T1 cung cấp một số tình tiết mới xin giảm nhẹ hình phạt, tuy nhiên những tình tiết này cũng không làm thay đổi đáng kể tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Phần đối đáp của các luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Trí M: Cơ quan điều tra có vi phạm trong việc khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật, niêm phong đồ vật tạm giữ, việc giám định và định giá hàng hóa không đúng quy định đây là vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử ở cấp sơ thẩm mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Do đó, đề nghị HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại đúng theo quy định pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm xác định các xe ô tô là vật chứng vụ án và tịch thu là không chính xác, không có cơ sở, không chứng minh được những phương tiện này đã dùng vào việc phạm tội. Do đó, đề nghị HĐXX trả lại cho Công ty T16 xe ô tô biển số 67C-041.xx nhãn hiệu THACO, xe ô tô biển số 67C-018.xx nhãn hiệu Nissan; trả lại cho Nguyễn Phương T14 xe ô tô biển số 51C-507.xx nhãn hiệu S3; trả lại cho Huỳnh Văn T15 xe ô tô tải biển số 67C-079.xx hiệu THACO; trả lại cho bị cáo M xe ô tô biển số 2AM-73xx hiệu LESUX, trả lại cho bị cáo M số tiền 100.000.000 đồng và 8.000 USD để bị cáo M trả lại cho ba, mẹ vì đây là tài sản riêng của ba, mẹ bị cáo M và bị cáo M chỉ là người giữ hộ. Cơ quan điều tra có vi phạm thủ tục khi thu giữ tang vật là các hàng hóa có hóa đơn, chứng từ có niên hạn sử dụng ngắn hơn 1 năm, khi Cơ quan điều tra trả lại thì các hàng hóa này đã hết hạn sử dụng, không còn giá trị, gây thiệt hại cho bị cáo M khoảng 10 tỷ đồng. Ngoài ra, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo M đã nộp tiền phạt bổ sung là 50.000.000 đồng và nộp lại tiền thu lợi bất chính là 30.000.000 đồng (do Hồng Mỹ U nộp thay), đề nghị HĐXX xem xét.

- Phần đối đáp của luật sư bào chữa cho bị cáo Hồng Mỹ T: Không tranh luận về tội danh và khung hình phạt mà Viện kiểm sát quy kết đối với bị cáo T. Đề nghị HĐXX áp dụng thêm cho bị cáo Hồng Mỹ T tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s, b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bên cạnh đó bị cáo T là lao động chính trong gia đình nuôi 02 con nhỏ và chăm sóc cha mẹ chồng già yếu trên 70 tuồi là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do bị cáo T có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đề nghị HĐXX tuyên xử bị cáo T thời hạn tù bằng thời hạn tạm giam và tuyên trả tự do cho bị cáo T ngay tại phiên tòa phúc thẩm.

- Phần đối đáp của các bị cáo Chu Đình Thiện T1, Nguyễn Văn C, Trần Kỳ N: Không tranh luận về tội danh và khung hình phạt mà Viện kiểm sát quy kết đối với các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và cho các bị cáo được hưởng án treo vì hoàn cảnh các bị cáo gia đình khó khăn, các bị cáo chỉ là người làm công ăn lương cho bị cáo M, làm theo sự chỉ đạo của bị cáo M.

- Phần tranh luận của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo - Ngân hàng TMCP Q2: Xe ô tô biển số 67C - 101.xx màu xám ghi, nhãn hiệu Ford đã được Trần Trí M thế chấp cho Ngân Hàng Q2, đã được đăng ký giao dịch đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật. Hiện nay, Trần Trí M đã vi phạm Hợp đồng tín dụng. Theo hợp đồng thế chấp và các quy định pháp luật thì Ngân hàng được quyền xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ. Do đó, đề nghị HĐXX tuyên giao trả xe ô tô này cho Ngân hàng Ngân hàng xử lý, thu hồi nợ, đảm quyền lợi, lợi ích hợp pháp của Ngân hàng.

Đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo, Ngân hàng TMCP Q2 giữ nguyên quan điểm về phần tranh tụng của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.

3. Phần các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo đều yêu cầu HĐXX xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thm tra, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Đại diện Viện kim sát, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Các bị cáo Trần Trí M, Hồng Mỹ T, Chu Đình Thiện T1, Nguyễn Văn C, Trần Kỳ N, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ngân hàng TMCP Q2 đã thực hiện việc kháng cáo theo đúng quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Đối với kháng cáo kêu oan của bị cáo Trần Trí M [2.1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo M kháng cáo kêu oan cho rằng bị cáo M chỉ bán hàng kém chất lượng chứ không có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Xét thấy:

Căn cứ lời khai nhận của bị cáo Chu Đình Thiện T1 - người làm công cho bị cáo M, nhân viên công ty T16: Bị cáo T1 được bị cáo M chỉ đạo để thiết kế các mẫu tem giả của nhớt loại KuBoTa, bị cáo M có đưa bị cáo T1 mẫu tem kiểm tra hàng chính hãng K, yêu cầu bị cáo T1 dùng phần mềm Corel vẽ lại và yêu cầu bị cáo T1 liên hệ tổng đài tin nhắn, bị cáo T1 đã thuê tổng đài số 6020 với giá 2.500.000 (hai triệu năm trăm nghìn) đồng/tháng để khi khách hàng cào lớp bạc trên tem điện lại tổng đài và tổng đài xác nhận đây là hàng chính hãng. Những mẫu tem giả này được dán lên các thùng nhớt K mà bị cáo M mua trôi nổi để xuất bán ra thị trường. Hàng ngày, bị cáo T là người xuất hàng, theo dõi sổ sách bán hàng, thu tiền (các bút lục từ 6443 đến 6477).

Căn cứ lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Văn C - người làm công cho bị cáo M, nhân viên công ty T16: Bị cáo Có được bị cáo M phân công quản lý kho phụ tùng xe Honda, Y. Số lượng hàng hóa phụ tùng xe gắn máy được nhập về kho là những hàng hóa không rõ nguồn gốc, không có hóa đơn, chứng từ, không phải là hàng chính hãng, mà là hàng kém chất lượng, hàng giả. Sau khi hàng được nhập về kho, bị cáo M, T chỉ đạo cho bị cáo C bỏ vào hộp đã dán tem kiểm định sẵn hoặc có gửi kèm một số tem kiểm định để dán vào các mặt hàng bị rách tem hoặc hư hỏng. Bị cáo T là người ký sổ sách, theo dõi tiếp thị và nhận tiền (các bút lục từ 1124 đến 1148).

Căn cứ lời khai nhận của bị cáo Trần Kỳ N - người làm công cho bị cáo M, nhân viên công ty T16: Bị cáo N được bị cáo M giao giữ kho, xuất nhập các loại nhớt. Trong thời gian làm việc tại đây, bị cáo M yêu cầu bị cáo N dán tem nhãn hiệu Kubota xác nhận hàng chính hãng lên chỗ tay cầm của thùng nhớt trước khi xuất nhớt bán ra thị trường. Bị cáo M, T đều có đưa tem cho bị cáo N dán. Bị cáo T chỉ đạo phải phân sẵn các loại nhớt mua của từng Công ty, không để trộn lẫn vào nhau. Khi xuất hàng, bị cáo T, M chỉ đạo lấy hàng của Công ty nào thì lấy hàng của Công ty đó. Bị cáo T là người điều hành trong việc bán hàng hàng ngày (các bút lục từ 6495 đến 6537).

Trong quá trình điều tra bị cáo M khai nhận: Các loại nhớt không rõ xuất xứ được mua tại chợ T17, riêng loại nhớt Kubota mua của một người tên N2. Các loại phụ tùng xe gắn máy không nguồn gốc cũng mua tại chợ T17 sau đó đem về chỉ đạo cho những người làm thuê như bị cáo C đóng hộp và dán tem vào để xuất bán ra thị trường, các mã sản phẩm trên tem nhãn thì không trùng với mã sản phẩm của Công ty H7, Y sản xuất. Đối với tem xác nhận hàng chính hãng K là do trên thị trường nhớt Kubota khi bán ra phải có tem xác nhận hàng chính hãng, bị cáo M chỉ đạo cho bị cáo T1 về theo mẫu do Nguyễn Văn N2 đưa rồi nhập mã sản phẩm và số tổng đài, tiền thuê tổng đài là do bị cáo M đưa cho bị cáo T1 chi trả, nhưng không nhớ là bao nhiêu, chỉ đạo cho bị cáo N dán tem khi xuất bán. Bị cáo mãnh cũng xác nhận bị cáo T là thủ quỹ trong Công ty và khi hàng hóa gần hết thì bị cáo kêu bị cáo T liên hệ đặt mua hàng và chuyển khoản trả tiền, cũng có khi bị cáo T trực tiếp kiểm tra hàng hóa mua vào, bị cáo T cũng biết việc dán tem xác nhận hàng chính hãng khi bán ra thị trường (các bút lục từ 937 đến 1046).

Tại phiên tòa sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo M không thừa nhận hành vi phạm tội của mình nhưng bị cáo M thừa nhận những mặt hàng mà bị cáo M mua về để bán lại là những mặt hàng thay thế cho hàng chính hãng, nhằm bán lại giá rẻ cho người tiêu dùng, đối với các phụ tùng xe gắn máy bị cáo M cũng thừa nhận không phải là hàng chính hãng của các hãng H7, Y, bị cáo M đóng gói vào các hộp có mang nhãn hiệu Honda,Yamaha để xuất bán, khi bán ra cũng nói với khách hàng là của các hãng H6, Y, nhưng bán với giá rẻ hơn hàng chính hãng.

Lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nó còn phù hợp với Kết luận giám định số 1517/C09B ngày 11/3/2021 và 18/11/2021; Số 1789 ngày 27/4/2021 và Công văn số 747 ngày 27/10/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh; Kết luận giám định số 122, 132, 143, 150 ngày 12/9/2021, 15/10/2021, 13/12/2021 và 15/12/2021 của Phòng K4 Công an tỉnh A; Kết luận định giá tài sản số 25, số 06.8.07, số 01.12.07 ngày 10/3/2021, 13/9/2021 và 09/12/2021, số 03.8.07 và 03.12.07/KL- HĐĐG.TTHS ngày 31/8/2021, 21/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh An Giang; Biên bản khám xét và vật chứng thu giữ trong vụ án.

Căn cứ khoản 1, điểm b, e khoản 7 Điều 3 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng do Chính phủ ban hành ngày 26/8/2020:

1. “Sản xuất” là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động chế tạo, chế bản, in, gia công, đặt hàng, sơ chế, chế biến, chiết xuất, tái chế, lắp ráp, pha trộn, sang chiếc, nạp, đóng gói và hoạt động khác;

7. “Hàng giả” gồm:

b) Hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản hoặc định lượng chất chính tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với mức tối thiểu quy định tại quy chun kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;

e) Tem, nhãn, bao bì hàng hóa giả”.

Từ các căn cứ nêu trên có cơ sở xác định bị cáo Trần Trí M phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” là có căn cứ và không oan sai.

Tại cấp phúc thẩm bị cáo M kháng cáo kêu oan nhưng không cung cấp thêm được chứng cứ, tình tiết mới để HĐXX phúc thẩm xem xét. Do đó, HĐXX không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo M.

[2.2] Đối với quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Trí M cho rằng bị cáo M không phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả Xét thấy, bị cáo M thừa nhận tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, các tem xác nhận hàng chính hãng K5 không phải là tem thật, tổng đài xác nhận với khách hàng hàng hóa chính hãng cũng không phải là tổng đài của K, các tem giả này là do các bị cáo tự thiết kế làm ra rồi dán lên các thùng nhớt, tạo niềm tin đối với khách hàng, làm cho họ tin tưởng là mình đã mua hàng thật chính hãng. Đối với các kết luận giám định các loại nhớt cũng đã kết luận nhớt thu giữ được tại Công ty của bị cáo M không cùng thành phần hóa học với các loại nhớt của hàng chính hãng, như vậy cũng đã chứng minh các loại nhớt này không phải là hàng thật của hàng chính hãng sản xuất ra. Đối với 170 thùng nhớt do ông Nguyễn Minh N4 tự giao nộp, bị cáo M cũng xác định bị cáo có đặt mua hàng nhớt này, nhưng bị cáo M khai nại mình đã hồi lại, nhưng không có chứng cứ chứng minh cho việc này. Đối với các loại phụ tùng xe gắn máy, bị cáo M cũng thừa nhận đây không phải là hàng xe gắn máy chính hãng của H7, Y, bị cáo mua trổi nổi bên ngoài, sau đó đóng hộp vào có dán sẵn nhãn mác của các thương hiệu H7, Y để xuất bán ra thị trường, hành vi đóng hộp này của bị cáo M chính là hành vi sản xuất được quy định tại Nghị định số 98/2020/NĐ-CP đã viện dẫn ở trên. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định hành vi của các bị cáo phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” là có căn cứ, đúng quy định pháp luật, nên HĐXX không có cơ sở chấp nhận quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo M.

[2.3] Đối với quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo M yêu cầu hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để xét xử lại Xét thấy, trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra Công an tỉnh A đã thực hiện việc khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật, niêm phong đồ vật tạm giữ, việc giám định và định giá hàng hóa đúng theo quy định của pháp luật. Hành vi, quyết định tố tụng khác của Cơ quan điều tra Công an tỉnh A, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, HĐXX không có cơ sở chấp quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo M về việc yêu cầu hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra lại.

[3] Căn cứ với lời khai nhận tội của các bị cáo Hồng Mỹ T, Chu Đình Thiện T1, Nguyễn Văn C, Trần Kỳ N phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định nêu tại mục

[2], Hội đồng xét xử có cơ sở xác định:

[3.1] Năm 2018, bị cáo Trần Trí M thành lập Công ty T16 kinh doanh phụ tùng xe gắn máy và dầu nhớt các loại, do bị cáo M làm giám đốc, bị cáo Hồng Mỹ T (vợ bị cáo M) giúp bị cáo M điều hành, quản lý Công ty trong việc nhận hàng, kiểm tra việc giao hàng, thu chi tiền hàng hóa mua bán.

Quá trình kinh doanh phụ tùng xe gắn máy và dầu nhớt, bị cáo M thấy phụ tùng xe gắn máy nhãn hiệu Honda, Y và dầu nhớt C2, K, S được người tiêu dùng ưa chuộng và sử dụng nhiều hơn các thương hiệu khác nên bị cáo M đã nảy sinh ý định mua phụ tùng xe gắn máy giả nhãn hiệu Honda, Y và dầu nhớt giả các thương hiệu nổi tiếng Castrol, K, S về bán lại với giá thấp hơn hàng chính hãng nhằm thu lợi. Bị cáo M đến chợ T17 và chợ K3 thuộc Thành phố Hồ Chí Minh mua các phụ tùng xe gắn máy giả hiệu Honda, Y (được đựng trong túi nylon, trên túi có in chữ Yamaha, Honda có dán mác in mã sản phẩm), dầu nhớt giả các thương hiệu nổi tiếng Castrol, BP, Shell của những người tên Vũ T8, Trâm M2, Mai S1, H4, Hòa C3, Kim A, L1, K1, B, V1 (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) đem về đóng gói, bán ra thị trường với giá thấp hơn hàng chính hãng từ 10% - 15% để thu lợi. Để thực hiện hành vi, bị cáo M kêu bị cáo T giúp bị cáo M đặt mua nhớt giả nhãn hiệu Kubota, C2, S và chuyển tiền mua bán hàng, quản lý Công ty khi bị cáo M đi vắng.

Đối với phụ tùng xe gắn máy không nhãn hiệu, bị cáo M thuê Nguyễn Hữu V2 (chủ cơ sở in ấn bao bì giấy “T” địa chỉ khu phố A, Quốc lộ A, Phường B, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh) in các tem, nhãn, vỏ hộp giả nhãn hiệu Honda, Y rồi gửi qua xe khách cho bị cáo M. Sau khi nhận được các tem, nhãn, vỏ hộp giả nhãn hiệu Honda, Y, bị cáo M chỉ đạo bị cáo Nguyễn Văn C và hai đối tượng tên Đặng Văn K2, H4 (là nhân viên quản lý, xử lý kho phụ tùng xe gắn máy) sắp xếp hàng hóa phụ tùng xe gắn máy không nhãn hiệu vào hộp, đóng gói để đưa cho nhân viên giao hàng là Võ Thế C4, Nguyễn Phi P1, Phạm Phương Đ1, Trần Phú P2, Hà Hoàng L2, Lê Thanh S2, Lâm Văn D, Nguyễn Hoàng H5, Trần Công T9, Dương Ngọc T10, Lưu Bình T11, Lê Văn T12 đem bán cho các cửa hàng trên địa bàn tỉnh An Giang và ngoài tỉnh. Đồng thời, bị cáo M còn đặt mua một số loại phụ tùng xe gắn máy chính hãng H7, Yamaha của Công ty TNHH T18 để bán cùng các loại phụ tùng giả nhãn hiệu Honda, Yamaha nhằm tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng.

Đối với nhớt hiệu Kubota, bị cáo M khai đặt mua của Nguyễn Văn N2, Trần Quang N3, do nhớt K không có tem xác nhận hàng Kubota chính hãng nên bị cáo M lên các trang Web tìm mẫu tem rồi chỉ đạo cho bị cáo Chu Đình Thiện T1 (nhân viên quản lý, thiết kế quảng cáo các trang Web của Công ty T16) thiết kế mẫu tem xác nhận hàng chính hãng (có ghi các dãy chữ, số cùng số điện thoại của tổng đài 6020 ở Thành phố Hồ Chí Minh, khi khách hàng cào lớp vỏ bạc nhắn tin dãy số và chữ trên tem thì tổng đài sẽ trả lời đó là hàng chính hăng), và thuê Nhiều in mẫu tem cho bị cáo M. Sau đó, bị cáo M chỉ đạo cho bị cáo Trần Kỳ N (nhân viên quản lý kho nhớt) dán số tem trên vào các thùng nhớt K, đồng thời bị cáo N còn nhờ Tạ Công T13, Phan Văn Q giúp dán tem khi xuất giao cho khách hàng, nhưng T13, Q không biết là các tem giả.

Với cách thức trên, từ khoảng 6/2019 đến tháng 3/2021, bị cáo M nhiều lần mua nhớt, phụ tùng xe gắn máy giả nhãn hiệu, giả chất lượng với số lượng lớn (không nhớ rõ số lượng, trị giá hàng hóa) đem về Công ty đóng gói, dán tem giả bán ra thị trường thu lợi khoảng 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng.

Ngày 02/3/2021, hành vi của bị cáo M bị phát hiện và bị cáo M đến Công an đầu thú. Cùng ngày 02/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh A tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo Trần Trí M tại Công ty T16 tại phường C, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang thu giữ 288 thùng nhớt Kubota loại UDT và DEO 10L và 20L; 846 chai nhớt (hiệu Castrol Power 1 Scooter; Castrol A Vistra 20W-50 4T); 12 thùng nhớt hiệu Vanellus 20W-50 loại 20L; 02 phuy nhớt hiệu Castrol Turbomax 15W-40 CI-4 loại 209 lít; 01 phuy nhớt hiệu Hyspin AWS 68 loại 209 lít); 28 thùng nhớt Shell Rimula R1 20W-50, R4 20W-50, R2 15W-40, R4 15W-40, loại 18 lít; 545 tem, nhãn xác nhận hàng Kubota chính hãng; 1392 tem dán trên các phụ tùng xe gắn máy hiệu Honda, Y. Ngoài ra, còn thu giừ 03 cây kiếm, 01 cây dao, 01 cây súng, 8.000 USD cùng nhiều hàng hóa là phụ tùng xe gắn máy, dầu nhớt các loại và nhiều vật chứng khác có liên quan.

Tổng giá trị hàng giả mà bị cáo M thực hiện là 779.506.852 đồng (bảy trăm bảy mươi chín triệu năm trăm lẻ sáu nghìn tám trăm năm mươi hai đồng), trong đó nhớt Kubota giả có giá trị là 352.834.000 đồng (ba trăm năm mươi hai triệu tám trăm ba mươi tư nghìn đồng) và phụ tùng xe gắn máy giả nhãn hiệu Honda, Y là 255.112.352 đồng (hai trăm năm mươi lăm triệu một trăm mười hai nghìn ba trăm năm mươi hai đồng).

Như vậy, bị cáo M và bị cáo T phải chịu trách nhiệm đối với tổng giá trị hàng giả là 779.506.852 đồng (bảy trăm bảy mươi chín triệu năm trăm lẻ sáu nghìn tám trăm năm mươi hai đồng). Bị cáo T1 và bị cáo N phải chịu trách nhiệm đối với số lượng nhớt Kubota giả có giá trị là 352.834.000 đồng (ba trăm năm mươi hai triệu tám trăm ba mươi tư nghìn đồng). Bị cáo C phải phải chịu trách nhiệm đối với số lượng phụ tùng xe gắn máy giả nhãn hiệu Honda, Y là 255.112.352 đồng (hai trăm năm mươi lăm triệu một trăm mười hai nghìn ba trăm năm mươi hai đồng).

Vụ án có đồng phạm giản đơn, không có sự phân công vai trò chặt chẽ giữa các bị cáo với nhau. Các bị cáo Trần Trí M, Hồng Mỹ T, Chu Đình Thiện T1, Nguyễn Văn C, Trần Kỳ N là người trưởng thành, có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc sản xuất, buôn bán hàng giả là vi phạm pháp luật, nhưng vì lợi ích cá nhân mà các bị cáo M, T và vì cả nể mà các bị cáo T1, C, N vẫn cố tình thực hiện.

Hành vi của các bị cáo Trần Trí M. Hồng Mỹ T, Chu Đình Thiện T1, Nguyễn Văn C, Trần Kỳ N là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại, không những gây ảnh hưởng đến quyền lợi những người sản xuất hợp pháp và người tiêu dùng mà còn ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội.

[3.2] Với hành vi nêu tại mục [3.1] Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Trần Trí M, Hồ N phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; các bị cáo Chu Đình Thiện T1, Nguyễn Văn C, Trần Kỳ N phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Trí M

[4.1] Bị cáo M là người trực tiếp liên hệ với các đối tượng tại các chợ K3, T (Thành phố Hồ Chí Minh) mua các phụ tùng xe gắn máy giả hiệu Honda, Y, dầu nhớt giả các thương hiệu Castrol, BP, S đem về chỉ đạo các nhân viên đóng gói, dán tem bán ra thị trường, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo M là người chủ mưu, giữ vai trò chính trong vụ án là đúng. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo M không có tình tiết tăng nặng và có một tình tiết giảm nhẹ là người phạm tội đầu thú quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đồng thời Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét bị cáo M, phạm tội lần đầu từ đó xử phạt bị cáo M 08 (tám) năm tù là phù hợp với quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do bị cáo M thực hiện.

[4.1] Tại cấp phúc thẩm, bị cáo M xuất trình thêm tình tiết mới là sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo M đã nộp lại toàn bộ số tiền thu lợi bất chính là 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) và đã nộp số tiền phạt bổ sung là 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) theo Biên lai thu tiền số 0000114 ngày 17/8/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang (do Hồng Mỹ U nộp thay). Nhưng tình tiết này không làm thay đổi đáng kể tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo M, chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát, giữ nguyên phần hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo M.

[5] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo T

[5.1] Bị cáo T là vợ bị cáo M, giúp Mãnh quản lý công việc kinh doanh khi bị cáo M đi vắng, giúp M đặt mua nhớt giả nhãn hiệu Kubota, C, S, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo T là người giúp sức cho bị cáo M là đúng. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo T không có tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đồng thời Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét bị cáo T có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu từ đó xử phạt bị cáo T 07 (bảy) năm tù là phù hợp với quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do bị cáo T thực hiện.

[5.2] Tại cấp phúc thẩm, bị cáo T thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo T là người phụ thuộc vào bị cáo M, do mối quan hệ vợ chồng nên bị cáo T chỉ giúp bị cáo M thực hiện công việc kinh doanh khi bị cáo M đi vắng, toàn bộ công việc kinh doanh là do bị cáo M quyết định; bị cáo T chỉ thực hiện theo công việc cụ thể mà bị cáo M yêu cầu, do đó cần xem xét thêm bị cáo T có vai trò giúp sức cho bị cáo M nhưng với tính chất bị lệ thuộc và áp đặt từ bị cáo M thì phù hợp hơn với vai trò là đồng phạm giúp sức tích cực như Tòa án cấp sơ thẩm nhận định, bị cáo T và bị cáo M là vợ chồng cùng bị xét xử trong vụ án này; đồng thời bị cáo T xuất trình tình tiết mới là bị cáo T là lao động chính trong gia đình, đang nuôi 02 con nhỏ là cháu Trần Trí Q1 sinh năm 2008, cháu Trần Trí V3 sinh năm 2013 và cha mẹ chồng già trên 70 tuổi là các tình tiết giảm nhẹ mới được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, có căn cứ áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 giảm một phần hình phạt cho bị cáo để tương xứng với tính chất, mức độ tham gia phạm tội của bị cáo T và tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do bị cáo T thực hiện.

[6] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo của bị cáo Chu Đình Thiện T1:

[6.1] Bị cáo T1 là người giúp bị cáo M vẽ tem xác nhận hàng chính hãng của nhớt Kubota giả, bị cáo T1 là người làm công cho bị cáo M, các bị cáo không bàn bạc việc tổ chức sản xuất hàng giả, không hưởng lợi từ việc sản xuất kinh doanh hàng giả và hoàn toàn phụ thuộc vào người chủ là bị cáo M. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo T1 là người giúp sức cho bị cáo M với vai trò thứ yếu là đúng. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo T1 không có tình tiết tăng nặng và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án; người phạm tội đầu thú là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đồng thời Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét bị cáo T1 có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu từ đó xử phạt bị cáo T1 02 (Hai) năm tù là phù hợp với quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do bị cáo T1 thực hiện.

[6.2] Tại cấp phúc thẩm, bị cáo T1 xuất trình thêm tình tiết mới là sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo T1 đã nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0000018 ngày 24/3/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh An Giang và bị cáo T1 đã tạm nộp số tiền khắc phục hậu quả là 50.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0000017 ngày 24/3/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh An Giang. Nhưng tình tiết này không làm thay đổi đáng kể tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo T1, chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát, giữ nguyên phần hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo T1.

[7] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Văn C:

[7.1] Bị cáo C là người giúp bị cáo M đóng gói các phụ tùng xe gắn máy giả hiệu Honda, Y để bán ra thị trường, bị cáo C là người làm công cho bị cáo M, các bị cáo không bàn bạc việc tổ chức sản xuất hàng giả, không hưởng lợi từ việc sản xuất kinh doanh hàng giả và hoàn toàn phụ thuộc vào người chủ là bị cáo M. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo C là người giúp sức cho bị cáo M với vai trò thứ yếu là đúng. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo C không có tình tiết tăng nặng và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án; người phạm tội đầu thú là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đồng thời Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét bị cáo c có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu từ đó xử phạt bị cáo C 02 (Hai) năm tù là phù hợp với quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do bị cáo C thực hiện.

[7.2] Quá trình tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo nhưng không cung cấp được tình tiết mới làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo C, cũng như đề nghị của người bào chữa cho bị cáo C, chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát, giữ nguyên phần hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo C.

[8] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo của bị cáo Trần Kỳ N:

[8.1] Bị cáo N là người giúp bị cáo M dán tem xác nhận hàng chính hãng của nhớt Kubota giả lên các thùng nhớt Kubota các loại để bán ra thị trường, bị cáo N là người làm công cho bị cáo M, các bị cáo không bàn bạc việc tổ chức sản xuất hàng giả, không hưởng lợi từ việc sản xuất kinh doanh hàng giả và hoàn toàn phụ thuộc vào người chủ là bị cáo M. Trong quá trình dán tem, bị cáo N nghi ngờ đây là những thùng nhớt giả nên bị cáo N làm đơn xin nghỉ nhưng chưa được bị cáo M đồng ý cho nghỉ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo N là người giúp sức cho bị cáo M với vai trò thứ yếu là đúng. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo N không có tình tiết tăng nặng và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án; người phạm tội đầu thú là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đồng thời Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét bị cáo N có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu từ đó xử phạt bị cáo N 01 năm 06 tháng (một năm sáu tháng) tù là phù hợp với quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do bị cáo N thực hiện.

[8.2] Quá trình tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo nhưng không cung cấp được tình tiết mới làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo N, cũng như đề nghị của người bào chữa cho bị cáo N, chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát, giữ nguyên phần hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo N.

[9] Đối với kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Ngân hàng TMCP Q2 (sau đây gọi tắt là Ngân hàng Q2) Ngân hàng TMCP Q2 kháng cáo yêu cầu giao ô tô nhãn hiệu Ford biển số 67C - 101.xx cho Ngân hàng để Ngân hàng xử lý tài sản thế chấp.

Xét thấy, xe ô tô nhãn hiệu Ford biển số 67C-101.xx do bị cáo Trần Trí M đứng tên và đang thế chấp tại Ngân hàng Q2 để vay tiền. Tuy nhiên, hiện nay Ngân hàng Q2 đang khởi kiện bị cáo M tranh chấp Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp đang được TAND tỉnh An Giang giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, chưa ban hành bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên trả xe ô tô này lại cho bị cáo M là phù hợp với quy định của pháp luật, HĐXX không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng Q2.

[10] Đối với quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo M về việc xử lý tang vật trong vụ án [10.1] Về xử lý vật chứng là các xe ô tô Xét thấy, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả bị cáo M đã sử dụng các xe ô tô biển số 67C - 041.xx, màu xanh, nhãn hiệu THACO do Công ty TI6 đứng tên; xe ô tô biển số 67C - 018.xx, màu đen, nhãn hiệu Nisan do Công ty T16 đứng tên; xe ô tô biển số ô tô biển số 51C - 507.xx, màu bạc, nhãn hiệu Suzuki Carry do Nguyễn Phương T14 đứng tên; xe ô tô tải thùng kín màu xanh hiệu THACO (loại TOWNERR 800) biển số 67C - 079.xx do Huỳnh Văn T15 đứng tên làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định các xe ô tô này là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội và tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước là phù hợp với quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Đồng thời, sau khi xét xử sơ thẩm Nguyễn Phương T14, Huỳnh Văn T15 không có khiếu nại, kháng cáo về nội dung tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước các xe ô tô đứng tên Nguyễn Phương T14, Huỳnh Văn T15. Đối với các xe ô tô màu nâu hiệu LEXUS (loại LX 570) biển số 2AM - 73xx (không rõ người đứng tên), do xe không rõ nguồn gốc, đã thông báo truy tìm chủ sở hữu theo thời hạn luật định nên Tòa án cấp sơ thẩm tuyên tịch thu sung Ngân sách Nhà nước là phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, HĐXX không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của luật sư, chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giữ nguyên Bản án sơ thẩm về việc tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước đối với xe ô tô nêu trên.

[10.2] Đối với quan điểm của luật sư về việc Cơ quan điều tra có vi phạm thủ tục khi thu giữ tang vật là các hàng hóa có hóa đơn, chứng từ có niên hạn sử dụng ngắn hơn 1 năm, khi Cơ quan điều tra trả lại thì các hàng hóa này đã hết hạn sử dụng, không còn giá trị, gây thiệt hại cho bị cáo M khoảng 10 tỷ đồng Xét thấy, trong quá trình điều tra cơ quan điều tra đã tạm giữ, sau đó trả lại các hàng hóa có hóa đơn chứng từ của Công ty T16 (do gia đình của bị cáo M đại diện ký nhận) đúng theo quy định của pháp luật. Khi nhận lại hàng hóa bị cáo M, phía gia đình bị cáo M không có khiếu nại về việc số lượng hàng hóa bị hết hạn sử dụng, hàng hóa không còn giá trị sử dụng. Tại phiên tòa phúc thẩm, luật sư cho rằng bị cáo M bị thiệt hại 10 tỷ đồng nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Do đó, HĐXX không có cơ sở chấp nhận quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo M.

[10.3] Về xử lý tang vật là 100.000.000 đồng và 8.000USD của bị cáo M Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền 50.000.000 đồng đối với bị cáo M, buộc bị cáo M nộp lại số tiền thu lợi bất chính 30.000.000 đồng và tiếp tục tạm giữ số tiền 100.000.000 đồng và 8.000USD của bị cáo M để đảm bảo thi hành án là phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo M (do Hồng Mỹ U nộp thay) đã đã nộp số tiền phạt bổ sung là 50.000.000 đồng và đã nộp lại toàn bộ số tiền thu lợi bất chính là 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) theo Biên lai thu tiền số 0000114 ngày 17/8/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang. Do đó, cần tuyên trả lại cho bị cáo M số tiền 100.000.000 đồng và 8.000USD.

[11] Ghi nhận bị cáo Trần Trí M (do Hồng Mỹ U nộp thay) đã nộp số tiền phạt bổ sung là 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) theo Biên lai thu tiền số 0000114 ngày 17/8/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

Ghi nhận bị cáo Trần Trí M (do Hồng Mỹ U nộp thay) đã nộp lại toàn bộ số tiền thu lợi bất chính là 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) theo Biên lai thu tiền số 0000114 ngày 17/8/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

Ghi nhận bị cáo Chu Đình Thiện T1 đã nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0000018 ngày 24/3/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

[12] Trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm, bị cáo Chu Đình Thiện T1 đã tự nguyện tạm nộp số tiền khắc phục hậu quả là 50.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0000017 ngày 24/3/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh An Giang. Tuy nhiên, như đã nhận định ở trên, bị cáo T1 chỉ là người làm công ăn lương cho bị cáo M, không được hưởng lợi gì nên bị cáo T1 không phải nộp tiền khắc phục hậu quả. Do đó, trả lại cho bị cáo T1 số tiền 50.000.000 đồng tạm thu tiền khắc phục hậu quả theo Biên lai thu tiền số 0000017 ngày 24/3/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

[13] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[14] Án phí:

[ 14.1 ] Án phí hình sự phúc thẩm:

- Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo Trần Trí M, Chu Đình Thiện T1, Nguyễn Văn C, Trần Kỳ N phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo Hồng Mỹ T được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[14.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên Ngân hàng TMCP Q2 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 355, Điều 356, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hồng Mỹ T; Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Trí M, Chu Đình Thiện T1, Nguyễn Văn C, Trần Kỳ N, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Ngân hàng TMCP Q2. Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2022/HS-ST ngày 04 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang về hình phạt đối với bị cáo Hồng Mỹ T:

1.1. Tuyên bố các bị cáo Trần Trí M. Hồng Mỹ T, Nguyễn Văn C, Trần Kỳ N, Chu Đình Thiện T1 phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả.

- Áp dụng điểm a khoản 3, 4 Điều 192, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự;

+ Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Trần Trí M 08 (tám) năm tù.

Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo bị tạm giam ngày 02/3/2021 (ngày hai tháng ba năm hai nghìn không trăm hai mươi mốt).

+ Hình phạt bổ sung: phạt tiền bị cáo Trần Trí M 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) nộp vào ngân sách nhà nước. Ghi nhận bị cáo Trần Trí M đã nộp đủ số tiền phạt bổ sung là 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) theo Biên lai thu tiền số 0000114 ngày 17/8/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang (do Hồng Mỹ U nộp thay).

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 192, Điều 17, điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Hồng M3 Thi 06 năm 06 tháng (sáu năm sáu tháng) tù.

Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 29/11/2021 (ngày hai chín tháng mười một năm hai nghìn không trăm hai mươi mốt).

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 192, điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51, Điều 17, điều 58, Điều 54 Bộ luật Hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Chu Đình Thiện T1 02 (hai) năm tù.

Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 192, điểm s, t khoản 1,2 Điều 51, Điều 17, điều 58, Điều 54 Bộ luật Hình sự;

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 02 (hai) năm tù.

Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 192, điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51, Điều 17, điều 58, Điều 54 Bộ luật Hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Trần Kỳ N 01 năm 06 tháng (một năm sáu tháng) tù.

Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo chấp hành án.

1.2. Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

* Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước:

+ 09 (chín) điện thoại di động các loại (trong đó 01 (một) hiệu OPPO; 01 (một) hiệu Realme; 01 (một) hiệu VIVO; 01 (một) hiệu Iphone; 05 (năm) hiệu S4) liên quan đến việc các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

+ 01 (một) xe ô tô biển số 67C - 041.xx, màu trắng, nhãn hiệu THACO, số khung: RNHA500BKFC050666, số máy: JT-671887; Giấy Chứng nhận đăng ký xe 67C - 041.xx (bản gốc); Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật xe 67C - 041.xx (bản gốc) (đựng trong 01 (một) phong bì màu trắng được đánh số 01); Bảo hiểm xe; (do Công ty TNHH T16 đứng tên).

+ 01 (một) xe ô tô biển số 67C - 018.xx, màu đen, nhãn hiệu Nissan, số khung: MNTVCUD40Z0600566, số máy: YD2542934xx; Giấy Chứng nhận đăng ký xe 67C - 018.xx (bản gốc); Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật xe 67C - 018.xx (bản gốc); Bảo hiểm xe biển số 67C - 018.xx (bản chính) (trong 01 phong bì màu trắng được đánh số 01); (do Công ty TNHH T16 đứng tên).

+ 01 (một) Xe ô tô biển số 51C - 507.xx, màu bạc, nhãn hiệu Suzuki Carry, Số khung: MHYGDN71TEJ400192, số máy: G16AID246350; Giấy Chứng nhận đăng ký xe 51C - 507.xx (bản gốc); Giấy chứng nhận kiềm định an toàn kỹ thuật xe 51C - 507.xx (bản gốc) (trong 01 (một) phong bì màu trắng được đánh số 01); (do Nguyễn Phương T14 đứng tên).

+ 01 (một) xe ô tô tải thùng kín màu xanh, hiệu THACO (loại TOWNERR 800) biển số 67C- 079.xx, số khung: RNHA192ACHC045740; số máy: DA4650E7300134 - 3F5 (do Huỳnh Văn T15 đứng tên).

+ 01 (một) xe ô tô màu đen, hiệu LEXUS (loại LX 570) biển số 2AM - 73xx, số khung: JTHY00W98400614; số máy: 3UR3008671 (không rõ người đứng tên), do xe không rõ nguồn gốc, đã thông báo truy tìm chủ sở hữu theo thời hạn luật định.

+ 01 (một) xe mô tô hiệu Honda C50 màu xanh, biển số 67AD - 046.xx. (do H8 đứng tên), số khung: C50-93134xx, số máy: C50E - 93135xx (số khung, số máy đã bị đục sửa).

* Trả lại tài sản cho bị cáo Trần Trí M:

+ 7.223 (bảy nghìn hai trăm hai mươi ba) phụ tùng xe gắn máy các loại gồm: 100 (một trăm) nhông xe mô tô, 918 (chín trăm mười tám) nhông sên dĩa xe mô tô, 146 (một trăm bốn mươi sáu) bạc đạn xe mô tô, 299 (hai trăm chín mươi chín) vỏ xe, 20 (hai mươi) gấp xe máy, 50 (năm mươi) củ đề, 710 (bảy trăm mười) củ đề, 855 (tám trăm năm mươi lăm) bình xăng con, 15 (mười lăm) thớt đề 06 bi, 50 (năm mươi) mô tô đề, 1000 (một nghìn) bố đùm, 40 (bốn mươi) bố thắng, 400 (bốn trăm) bố thắng đĩa, 10 (mười) nhông sên dĩa DL, 95 (chín mươi lăm) lửa 6 tép, 164 (một trăm sáu mươi tư) mobin sườn xe Dream,W, 20 (hai mươi) nhông sên dĩa BNN, 200 (hai trăm) chóp kêu xe mô tô, 114 (một trăm mười bốn) yên xe ngắn, dài, 220 (hai trăm hai mươi) da yên xe các loại, 25 (hai mươi lăm) muốt yên xe dài, 253 (hai trăm năm mươi ba) vỏ xe mô tô các loại, 120 (một trăm hai mươi) ruột xe mô tô, 30 (ba mươi) bố thắng, 12 (mười hai) bộ giảm sốc xe mô tô, 45 (bốn mươi lăm) tay phanh dầu RS, 837 (tám trăm ba mươi bảy) ống giảm sốc xe mô tô, 20 (hai mươi) dĩa xe mô tô, 260 (hai trăm sáu mươi) bình ắc quy xe mô tô.

+ 15.784 (mười lăm nghìn bảy trăm tám mươi tư) sản phẩm nhớt các loại, gồm: 1.441 (một nghìn bốn trăm bốn mươi mốt) nhớt hiệu Jetcars (thể tích 0,5 lít; 0,8 lít, 200ml, 400ml, 01 lít, 04 lít, 18 lít, phuy 200 lít); 1.866 (một nghìn tám trăm sáu mươi sáu) nhớt hiệu WOLVER (thể tích 0,4 lít; 0,8 lít, 200ml, 400ml, 01 lít, 1,5 lít, 04 lít, 05 lít, 18 lít, 20 lít, 60 lít, phuy 208 lít); 2.391 (hai nghìn ba trăm chín mươi mốt) nhớt hiệu HAWKEYE (thể tích 01 lít, 05 lít, 18 lít, phuy 200 lít); 230 bình ắc quy hiệu Camel, ORB; 242 (hai trăm bốn mươi hai) nhớt hiệu TORA (thể tích 01 lít, 04 lít, 18 lít); 227 (hai trăm hai mươi bảy) nhớt hiệu SHREK (thể tích 01 lít, 18 lít, phuy 200 lít, phuy 208 lít); 1.377 (một nghìn ba trăm bảy mươi bảy) nhớt hiệu S-OIL (thể tích 0,8 lít, 01 lít, 04 lít, 05 lít, 18 lít, 20 lít, 25 lít, phuy 200 lít); 1.249 (một nghìn hai trăm bốn mươi chín) nhớt hiệu LUBREX (thể tích 0,8 lít, 01 lít, 1,2 lít, 04 lít, 18 lít, 20 lít); 828 (tám trăm hai mươi tám) nhớt hiệu GBG SAHA (thể tích 0,8 lít, 01 lít, 1,2 lít); 1.010 (một nghìn không trăm mười) nhớt hiệu DAILI (thể tích 01 lít, 04 lít, 18 lít, phuy 200 lít); 79 (bảy mươi chín) nhớt hiệu WIN SUPER (thể tích 04 lít, 18 lít, 30 lít, phuy 200 lít); 173 (một trăm bảy mươi ba) nhớt hiệu CASTROL (thể tích 01 lít, 04 lít, 05 lít, phuy 209 lít); 07 (bảy) nhớt hiệu SHELL RIMULA (thể tích 04 lít, 18 lít); 11 (mười một) nhớt hiệu KIXX (thể tích 25 lít, 3kg, 15kg); 576 (năm trăm bảy mươi sáu) nhớt hiệu VITEX (thể tích 0,8 lít, 01 lít, 1,2 lít); 900 (chín trăm) lon nhớt hiệu DELHI thể tích 01 lít; 42 (bốn mươi hai) can nước giải nhiệt hiệu MAXRIDER thể tích 04 lít; 180 (một trăm tám mươi) chai nhớt hiệu TOTAL thể tích 01 lít; 57 (năm mươi bảy) chai nhớt hiệu YAMALUBA thể tích 0,8 lít; 96 (chín mươi sáu) can nước giải nhiệt hiệu LAMBO thể tích 04 lít; 450 (bốn trăm năm mươi) nhớt hiệu NIKKO (thể tích 01 lít, 18 lít); 102 (một trăm lẻ hai) nhớt hiệu ASTRA (thể tích 01 lít, 18 lít); 08 (tám) nhớt hiệu ZIC (Thể tích 20 lít, phuy 200 lít); 18 (mười tám) lon mỡ bôi trơn GREASE EP3 trọng lượng 3kg; 09 (chín) nhớt hiệu DELUXE (thể tích 18 lít, phuy 200 lít); 01 (một) xô nhớt hiệu UTF thể tích 20 lít; 1.561 (một nghìn năm trăm sáu mươi mốt) nhớt các loại hiệu ROBO, JETTRA, VANE BUS, HTH Technic, HTH VG 68, HTH Lube, ACCESS 1000, SAHARA, dầu thắng (thể tích 01 lít, 04 lít, 18 lít); 582 (năm trăm tám mươi hai) mở bôi trơn các loại hiệu DOGA, ATM, JONHSEN’S, NASCA (trọng lượng 01kg, 03kg, 15kg); 171 (một trăm bảy mươi mốt) can nước giải nhiệt hiệu ROCKET, SAMBA thể tích 04 lít;

+ 01 (một) xe mô tô hiệu Suzuki biển số 67B2 - 169.xx, màu xanh, nhãn hiệu Suzuki, số khung: RU120U - A025213, số máy: F124 - 102213;

+ 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Dream II màu nâu, biển số 67N1 - 428.xx, nhãn hiệu Honda Dream II, số khung: C100ME - 81845xx, số máy: C50E- 9313502;

+ 01 (một) xe ô tô 07 chỗ màu đen ghi hiệu FORD (loại EVEREST uw 151-7) biển số 67A - 139.xx, số khung: RL05SUHAM8KR09019, số máy: 937662 (do Huỳnh Trọng N5 đứng tên).

+ 01 (một) xe ô tô biển số 67C - 101.xx, màu ghi xám, nhãn hiệu Ford Ranger, số khung: MNCLMFF80GW585232, số may: P4AT2214616; Giấy Chứng nhận đăng ký xe 67C - 101.xx (bản sao); Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật xe 67C - 101.xx (bản gốc); Bảo hiểm xe 67C - 101.xx (bản chính) (trong 01 phong bì màu trắng được đánh số 01); (do Trần Trí M đứng tên).

+ 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Spacy màu trắng biển số 67E1 - 449.xx số khung: JF - 1402005, số máy: JF04E - 22020xx (do Trần Trí M đứng tên);

+ Số tiền 100.000.000 (một trăm triệu) đồng và 8000 (tám nghìn) USD của bị cáo Trần Trí M * Buộc bị cáo Trần Trí M nộp số tiền thu lợi bất chính 30.000.000 (ba mươi triệu đồng) đồng để sung vào Ngân sách Nhà nước, nhưng được cấn trừ số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) đã nộp theo Biên lai thu tiền 0000114 ngày 17/8/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh An Giang (do Hồng Mỹ U nộp thay) với số tiền mà Trần Trí M phải nộp nêu trên. Thi hành ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

(Tất cả vật chứng trên hiện do Cục thi hành án dân sự tỉnh An Giang tạm gửi tại Cơ quan Điều Tra và Kho vật chứng của Công An tỉnh A quản lý theo Văn bản số 872/CTHADS-NV ngày 19/8/2022).

2. Tiếp tục tạm giam các bị cáo Trần Trí M, Hồng Mỹ T để đảm bảo thi hành án.

3. Trả lại cho bị cáo Chu Đình Thiện T1 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) tiền tạm thu tiền khắc phục hậu quả theo Biên lai thu tiền số 0000017 ngày 24/3/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày thời hạn hết kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

5. Về án phí:

5.1. Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Trần Trí M, Chu Đình Thiện T1, Nguyễn Văn C, Trần Kỳ N mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

5.2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ngân hàng TMCP Q2 phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, được cấn trừ với số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo Biên lai thu tiền số 0000166 ngày 20/3/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh An Giang. Ngân hàng TMCP Q2 đã nộp đủ tiền án phí dân sự phúc thẩm.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng giả số 842/2023/HS-PT

Số hiệu:842/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:03/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về