Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng giả số 487/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 487/2023/HS-PT NGÀY 25/07/2023 VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ

Ngày 25 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 338/2023/TLPT-HS ngày 12 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Phạm Quang T phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” do có kháng cáo của bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 110/2023/HS-ST ngày 28 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố H.

Bị cáo có kháng cáo:

Phạm Quang T; Giới tính: nam; Sinh năm 1972, tại Quảng Ngãi; Nơi cư trú: A T, phường T, Quận A, TP .; Nghề nghiệp: Giám đốc Công ty P1; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm N và bà Nguyễn Thị P; Có vợ và có 02 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại (có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Tôn Thất Hồ N1, là Luật sư của Văn phòng L, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có kháng cáo:

Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Xây dựng Phạm Huy Địa chỉ: 18 Đ, phường P, quận T, TP ..

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Quang T - Giám đốc (có mặt).

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Tôn Thất Hồ N1 (có mặt).

Ngoài ra trong vụ án này còn có các bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo nên Tòa án không triệu tập

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 25/10/2018, Đội Cảnh sát kinh tế kết hợp Đội Cảnh sát giao thông Công an quận T tuần tra phát hiện Phạm Quang T điều khiển xe ô tô biển số 51F-xxxx chở 5.000 cuộn giấy đánh số hiệu METO loại số 2 được sản xuất tại C X, phường D, quận T. Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tại C X, phường D, quận T thu giữ được: 5.040 cuộn giấy đánh số hiệu METO loại số 5; 15.120 cuộn giấy đánh số hiệu METO loại số 2; 05 thùng carton (bao bì) có in chừ METO dùng chứa cuộn giấy đánh số hiệu METO; 100 cái lõi nhựa màu đen, không hiệu dùng để cuộn giấy; 01 cuộn giấy decal màu trắng dài 1.000 mét, ngang 15cm dùng để sản xuất ra cuộn giấy đánh số nhãn hiệu METO. 16 tờ hóa đơn GTGT của Công ty TNHH P1, địa chỉ: A Đ, phường P, quận T; 01 máy bế giấy kê số không hiệu, dùng sản xuất cuộn giấy đánh số nhãn hiệu METO.

Kết quả điều tra: Công ty TNHH P1 (viết tắt Công ty P1), trụ sở A Đ, phường P, quận T, Thành phố H được Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố H cấp phép thành lập ngày 12/5/2009, ngành nghề kinh doanh: Xây dựng, sản xuất giấy đánh số; do Phạm Quang T là Giám đốc đại diện theo pháp luật, trực tiếp điều hành mọi hoạt động của công ty. Từ năm 2009 đến 2016, Công ty P1 hoạt động lĩnh vực xây dựng. Năm 2016, do hoạt động lĩnh vực xây dựng không hiệu quả nên T chuyền sang sản xuất và kinh doanh giấy đánh số không nhãn hiệu. T thuê nhà kho số C X, Phường D, quận T, làm nơi sản xuất giấy đánh số (không đăng ký nơi sản xuất). Quá trình sản xuất, kinh doanh, nhận thấy nhãn hiệu giấy đánh số nhãn hiệu METO (thương hiệu của Đ) được khách hàng ưa chuộng, dù không được chủ sở hữu nhăn hiệu METO ký hợp đồng cho phép sản xuất và kinh doanh giấy đánh số nhãn hiệu METO tại Việt Nam, nhưng T vẫn tiến hành sản xuất giấy đánh số giả nhãn hiệu METO nhằm mục đích bán được nhiều hàng hóa và tăng thêm doanh thu.

Quy trình sản xuất, kinh doanh giấy đánh số giả nhãn hiệu METO do Phạm Quang T thực hiện như sau: T sử dụng máy bế giấy chuyên sản xuất giấy đánh số không nhãn hiệu (máy mua trôi nổi trên thị trường). Trong máy bế giấy có 01 lô cuộn giấy bằng sắt, T thuê người của tiệm cơ khí (không nhớ địa chỉ) khắc nhãn hiệu METO loại số 2, số C, số D, số 5 lên lô cuộn giấy đúng và giống theo mẫu nhăn hiệu METO, để khi in chữ METO hiện sẵn trên giấy đánh số giống như giấy đánh số METO thật chính hãng sản xuất. Trung bình mỗi ngày, T sản xuất khoảng 04 thùng giấy đánh số giả mạo nhãn hiệu METO, mỗi thùng tương đương 2.000 cuộn giấy đánh số, mỗi cuộn là 1.300 tem. Số lượng giấy đánh số giả nhãn hiệu METO đã sản xuất được bao nhiêu, T không nhớ chính xác, vì T chỉ chuyên sản xuất giấy đánh số không nhãn hiệu, khi khách hỏi mua giấy đánh số nhãn hiệu METO, T mới tiến hành sản xuất để bán cho khách, khi bán cho khách hàng T không nói hàng sản xuất giả, chỉ nói có buôn bán giấy đánh số nhãn hiệu METO.

Nguyên liệu đầu vào là giấy decal dùng để sản xuất giấy đánh số không nhãn hiệu T mua của Công ty TNHH S2; lõi nhựa mua tại các cửa hàng bán phụ kiện ngành may trên đường Â, quận T; về bao bì thùng giấy và carton T đưa cho các cửa hàng trên đường L, quận T gia công đúng theo mẫu bao bì có in nhãn METO. Năm 2018, ngoài việc tự sản xuất giấy đánh số mang nhãn hiệu METO, T còn mua giấy đánh số nhãn hiệu METO của Công ty TNHH S3 về để bán lại cho khách hàng vì T không sản xuất đủ hàng để bán theo đơn đặt hàng của khách hàng cũng như việc mua giấy đánh số METO từ công ty khác đem lại lợi nhuận gần bằng việc tự sản xuất. T không biết Công ty S3 có được chủ sở hữu nhãn hiệu METO cho phép kinh doanh giấy đánh số mang nhãn hiệu METO hay không.

Hàng giả sau khi sản xuất, T bán cho Công ty TNHH L1, Công ty TNHH MTV T3, Công ty TNHH M1, Công ty cổ phần G và các khách hàng lẻ đặt mua qua điện thoại. Giá bán cho khách hàng thấp hơn 200 đồng - 300 đồng/cuộn so với giá giấy đánh số nhãn hiệu METO chính hãng bán ra, xuất hóa đơn Công ty P1 nếu khách hàng yêu cầu, giấy METO giả tự sản xuất T bán chung với các mặt hàng khác của Công ty sản xuất, kinh doanh.

Toàn bộ hóa đơn chứng từ hàng hóa mua vào, bán ra của Công ty P1 từ năm 2016 đến nay không thu giữ được do di chuyển Công ty nên thất lạc. Chỉ thu giữ được hóa đơn chứng từ mua nguyên liệu để sản xuất giấy đánh số Công ty TNHH S2 và mua giấy đánh số nhãn hiệu METO từ Công ty TNHH S3 qua mạng internet, đặt mua hàng qua điện thoại (không nhớ thông tin và số điện thoại liên lạc), không trực tiếp giao dịch tại trụ sở Công ty S3, không biết và tiếp xúc giao dịch với bất cứ ai đại diện của Công ty. Khi đặt hàng qua điện thoại, có người giao hàng và hóa đơn giá trị gia tăng đến số C X cho T, khi giao hàng không có phiếu xuất kho, phiếu giao nhận hàng.

Đối với Nguyễn Thiện T1, làm việc tại Công ty P1 từ năm 2016 đến khoảng tháng 9/2018 nghỉ việc, không ký Hợp đồng lao động, được T giao đứng máy đánh số và một số việc khác theo yêu cầu của T, T không giao việc bán giấy đánh số không nhãn hiệu và giấy đánh số mang nhãn hiệu METO cho T1.

Kết quả xác minh nguồn cung cấp nguyên liệu của Công ty P1:

Đại diện Công ty TNHH S2 khai: Công ty P1 mua giấy tự dính (giấy trắng có bề mặt chưa in nhãn hiệu) đề tự sản xuất tem nhãn từ năm 2016 đến nay, việc xuất bán có hóa đơn chứng từ, thực hiện thanh toán chuyển khoản qua ngân hàng, Công ty Vũ Hoàng M đã kê khai thuế đối với hóa đơn giá trị gia tăng bán hàng cho Công ty P2 Công ty S3 không hoạt động tại nơi đăng ký ở 9 X, Phường A, quận B, Chi cục Thuế quận B đã thông báo doanh nghiệp bỏ khỏi địa chỉ kinh doanh, khai báo thuế đến năm 218, nhưng không có hóa đơn chứng từ kèm theo, nên không xác định được loại hàng hóa đã xuất bán cho Công ty P2 Ông Phạm Văn C là người đại diện theo pháp luật của Công ty S3 đã bỏ đi khỏi nơi cư trú, không có mặt tại địa phương.

- Đối với các đơn vị mua giấy đánh số nhãn hiệu METO do Công ty P1 cung cấp khai do giấy đánh số hiệu METO do Công ty P1 cung cấp có giá thành thấp hơn không nhiều so với các đơn vị khác bán, nên không biết Công ty P1 bán giấy đánh số nhãn hiệu METO là hàng giả hay hàng thật, cụ thể:

Công ty T3: mua 02 lần, ngày 15/01/2018 và ngày 04/6/2018, mỗi lần 500 cuộn giấy đánh số METO loại số 2, giá tiền 2.475.000 đồng/lần, tổng số tiền đã thanh toán bằng tiền mặt 4.950.000 đồng. Công ty P3 cho Công ty T3, đã thực hiện khai báo thuế đối với hóa đơn này.

Công ty Ml: mua 02 lần, ngày 02/4/2018 và ngày 04/7/2018, mỗi lần 500 cuộn giấy đánh số Meto loại số 2, giá tiền 2.475.000 đồng/lần, tổng số tiền đã thanh toán bằng tiền mặt 4.950.000 đồng. Công ty P3 cho Công ty M1 và đã kê khai thuế đối với hóa đơn này.

Công ty L1: từ đầu năm 2017 đến nay, nhiều lần giao dịch mua giấy đánh số nhãn hiệu METO với Công ty P2 Từ quý 1/2017 đến quý 4/2018, mua hàng hóa là giấy đánh số hiệu METO của Công ty P1 tổng cộng 81 lần. Thanh toán hình thức chuyển khoản ngân hàng cho Công ty P1, tổng giá trị hàng hóa đã mua là 1.366.117.500 đồng. Sau khi nhận hóa đơn Giá trị gia tăng mua hàng, Công ty L1 đã kê khai thuế đối với các hóa đơn này.

Công ty Cổ phần G: từ đầu năm 2016 đến tháng 3/2017 nhiều lần giao dịch mua giấy đánh số nhãn hiệu METO của Công ty P2 Thanh toán hình thức chuyển khoản ngân hàng cho Công ty P1, tổng số tiền đã thanh toán 209.011.000 đồng.

Như vậy, tổng giá trị hàng hóa giấy đánh số nhãn hiệu METO do Công ty P3 bán cho các Công ty nêu trên là 1.585.028.500 đồng, tuy nhiên do số hàng hóa này đã được các Công ty mua sử dụng hoặc bán nên không còn để thu giữ mẫu và giám định xác định là hàng thật hay hàng do Công ty P1 sản xuất giả. Đối với các hóa đơn giá trị gia tăng xuất cho khách hàng, nội dung Giấy đánh số METO các loại, do T trực tiếp sản xuất giả và mua trôi nổi bên ngoài xuất bán cùng giá, việc mua bán đã lâu nên T không phân loại xác định được số hàng này là giả hay thật.

Chi cục Thuế quận T xác định: Công ty P4 chưa quyết toán thuế năm 2016 đến nay, nên Chi cục thuế không cung cấp được hóa đơn chứng từ mua vào bán ra của Công ty P2 Căn cứ tờ khai quyết toán thuế của Công ty P1 không xác định được giá trị hàng hóa mua vào, bán ra liên quan đến việc sản xuất, kinh doanh giấy đánh số nhãn hiệu METO. Do đó, không có cơ sở xác định được số tiền thu lợi bất chính từ việc sản xuất, kinh doanh giấy đánh số nhãn hiệu METO của Phạm Quang T.

Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ K và Công nghệ trả lời: nhãn hiệu “METO” đang được bảo hộ tại Việt Nam theo Đăng ký Quốc tế số 1036388 chỉ định vào Việt Nam cho các sản phẩm nhãn hàng hóa thuộc nhóm 09, 16, 24, 35 cho sản phẩm liên quan nhãn dán, nhãn sản phẩm, ngày đăng ký quốc tế 14/01/2010, thời hạn hiệu lực đến ngày 14/01/2030, chủ sở hữu đăng ký quốc tế là Meto International GmbH, địa chỉ: Ersheimer S, 69434 Hirschhom (DE), G (Đức).

Ngày 22/12/2017 và ngày 10/6/2021, Công ty M2 ủy quyền cho Công ty L2 (TGVN) là đại diện chủ sở hữu nhãn hiệu METO tại Việt Nam và đại diện bảo vệ và lợi ích hợp pháp của Công ty tại các cơ quan tư pháp Việt Nam đã được hợp pháp hóa lãnh sự ngày 07/7/2021. Xác định giấy dán nhãn nhãn hiệu METO chính hãng được sản xuất và phân phối tại thị trường Việt Nam thông qua các đơn vị được cấp phép sản xuất và nhà phân phối được ủy quyền của Công ty M3, như: Công ty TNHH G1 có địa chỉ: C S, ấp Đ, xã T, huyện H và Công ty TNHH U có địa chỉ: C A, phường A, Quận A. Hai đơn vị này vừa là nhà sản xuất theo ủy quyền nhãn giấy METO chính hãng vừa là nhà phân phối được Công ty M3 ủy quyền. Công ty M3 không ủy quyền, cấp phép cho Công ty P1 có địa chỉ: A Đ, phường P, quận T sản xuất, kinh doanh các sản phẩm nhãn giấy METO chính hãng; yêu cầu xử lý hình sự đối với hành vi sản xuất các nhãn giấy giả mạo thương hiệu METO của Công ty P1 và các cá nhân có liên quan. Đồng thời, yêu cầu Phạm Quang T phải bồi thường thiệt hại 03 khoản: chi phí thiệt hại từ việc sản xuất giả 241.665.000 đống; chi phí thiệt hại từ lợi nhuận bị giảm sút 110.000.000 đồng; chi phí thuê luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với vụ án 120.000.000 đồng. Tổng cộng là 471.665.000 đồng.

Ông Cao Trần Tuấn A là Giám đốc đại diện Công ty TNHH G1 và ông Cho S là Giám đốc Công ty TNHH U, khai: Năm 2014, Checkpoint S1 (M) Sdn Bhd (Malaysia) (năm 2016 tên C1), đổi tên thành Meto International GmbH đến nay; đã ký Hợp đồng phân phối và cấp phép cho hai đơn vị tại Việt Nam để sản xuất và phân phối các sản phẩm nhãn giấy mang nhãn hiệu METO tại Việt Nam. Việc phê duyệt mẫu nhãn hiệu, chất lượng sản phẩm, quy chuẩn kỹ thuật chi tiết rất đa dạng theo từng kích cỡ hoặc từng loại nhãn giấy, theo từng lô sản xuất riêng biệt, đính kèm tài liệu gởi riêng mang tính bảo mật kinh doanh của doanh nghiệp. Hai Công ty không ủy quyền, cấp phép cho Công ty P1 hoặc cá nhân Phạm Quang T sản xuất, kinh doanh các sản phẩm nhãn giấy METO chính hãng. Do đó, việc Phạm Quang T và Công ty P1 sản xuất giả giấy đánh số nhãn hiệu METO là vi phạm pháp luật, đề nghị xử lý hình sự.

Kết luận giám định số 1311/KLGĐ-TT ngày 20/8/2019 của Phòng K1 Công an Thành phố H về giám định sản phẩm nhãn giấy hiệu METO của Công ty P1 do Phạm Quang T sản xuất với sản phẩm nhãn giấy METO chính hãng “không phải được in ra từ cùng một bộ chế bản in”.

Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 146/HĐĐGTS-TTHS ngày 16/7/2019; Công văn số 798/HĐTTHS ngày 30/7/2021 và số 1018/HĐTTHS ngày 15/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đối với hàng hóa thu giữ của Công ty P1 có tổng giá trị 115.752.000 đồng.

Kết luận giám định sở hữu công nghiệp số NH108-22TC.TP/KLGĐ ngày 21/3/2022 của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ, Bộ K và công nghệ: Sản phẩm giấy đánh số, loại số 02, số 05 gắn dấu hiệu “METO” là hàng hóa giả mạo đối với Nhãn hiệu được bảo hộ cho sản phẩm nhãn (không phải bằng vật liệu dệt) đề ghi nhãn hàng hóa thuộc Nhóm 16 theo Đăng ký quốc tế số 1036388 của Meto International GmbH (theo Điều 213.2 Luật Sở hữu trí tuệ).

Vật chứng vụ án:

- 5.035 cuộn giấy đánh số nhãn hiệu METO loại số 5;

- 20.115 cuộn giấy đánh số nhãn hiệu METO loại số 2;

- 05 thùng carton (bao bì) có in chữ “METO” dùng chứa cuộn giấy đánh số hiệu METO;

- 100 cái lõi nhựa màu đen, không hiệu dùng để cuộn giấy;

- 01 cuộn giấy đề can màu trắng dài 1.000 mét, ngang 15 cm dùng đề sản xuất ra cuộn giấy đánh số nhãn hiệu METO;

- 01 máy bế giấy kê số không hiệu, dùng để sản xuất cuộn giấy đánh số nhãn hiệu METO;

- 01 xe ô tô biển số 51F-xxxx đã qua sử dụng do Công ty P1 đăng ký sở hữu.

Tại bản án hình sự sơ thm số 110/2023/HSST ngày 28/3/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố H quyết định:

1. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 192; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Phạm Quang T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Buộc bị cáo Phạm Quang T nộp lại số tiền 69.179.615 (sáu mươi chín triệu một trăm bảy mươi chín ngàn sáu trăm mười lăm) đồng thu lợi bất chính để tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Tịch thu tiêu hủy: 5.035 cuộn giấy đánh số nhãn hiệu METO loại số 5; 20.115 cuộn giấy đánh số nhãn hiệu METO loại số 2; 05 thùng carton (bao bì) có in chữ “METO” dùng chứa cuộn giấy đánh số hiệu METO; 100 cái lồi nhựa màu đen, không hiệu dùng để cuộn giấy; 01 cuộn giấy đề can màu trắng dài 1.000 mét, ngang 15 cm dùng để sản xuất ra cuộn giấy đánh số nhãn hiệu METO.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 máy bế giấy kê số không hiệu, dùng để sản xuất cuộn giấy đánh số giả nhãn hiệu METO; 01 xe ô tô biển số: 51F-xxxx đã qua sử dụng.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/12/2021, Lệnh nhập kho vật chứng s 427-26 ngày 09/12/2021, Biên bản mở niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ cùng ngày 15/02/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố H; Công văn 15728/CTHADS-KHTC ngày 30/8/2022 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố H) Dành quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác cho Công ty M2, Công ty TNHH G1, Công ty U khi có yêu cầu.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 03/4/2023, bị cáo Phạm Quang T có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án hình sự sơ thẩm đề Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án.

Ngày 06/4/2023, đại diện Công ty TNHH P1 có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án hình sự sơ thẩm để Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án.

Tại phiên tòa phúc thm:

Bị cáo Phạm Quang T thay đổi nội dung đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Người bào chữa cho bị cáo T đồng thời là đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH P1 đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao: tại phiên tòa hôm nay bị cáo có sự chuyển biến về nhận thức pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo 06 tháng và chấp nhận người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH P1, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 110/2023/HS-ST ngày 28/3/2023 của Tòa án nhân dân thành phố H.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Về hình thức đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định nên chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

Bị cáo Phạm Quang T bị tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” theo điểm a khoản 1 Điều 192 Bộ luật hình sự. Bị cáo T kháng cáo yêu cầu hủy bản án với lý do có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật.

Pháp nhân Công ty TNHH P1 do bị cáo Phạm Quang T kháng cáo yêu cầu hủy án do có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật.

[1] Nội dung: Tại phiên tòa, bị cáo không khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm được tóm tắt nêu trên.

[2] Nhận định của Hội đồng xét xử: Khoảng 09 giờ ngày 25/10/2018, Đội cảnh sát kinh tế kết hợp với Đội cảnh sát giao thông công an quận T tuần tra phát hiện Phạm Quang T điều khiển xe ô tô biển số 51F-xxxx chở 5.000 cuộn giấy đánh số hiệu METO loại số 2 được sản xuất tại số C X, Phường D Quận T, thành phố H. Kết quả điều tra, Phạm Quang T khai: để thu lợi cá nhân, Phạm Quang T thực hiện việc thuê người khác khắc nhãn hiệu METO lên lô cuộn giấy, mua nguyên vật liệu để sản xuất giấy đánh số giả nhãn hiệu METO thuộc quyền sở hữu Công ty M2 đã được bảo hộ theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, sau đó sản xuất bán cho nhiều khách hàng sử dụng, đã thu lợi bất chính 69.179.615 đồng.

Căn cứ kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 146/HĐĐGTS-TTHS ngày 16/7/2019 thể hiện: hàng hóa thu giữ của Công ty P1 có tổng giá trị 115.752.000 đồng. Do đó, có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Phạm Quang T đã phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” với tình tiết định khung thuộc trường hợp có “giá từ 30.000.000 đồng đến dưới 150.000.000 đồng”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 mà cấp sơ thẩm đã xét xử là đúng người đúng tội.

Hành vi của bị cáo Phạm Quang T đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh thương mại, gây nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng. Do đó, hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội và điều luật mà cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả của bị cáo là đúng quy định của pháp luật, không làm oan bị cáo. Tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thay đổi kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xem như bị cáo có sự chuyển biến về nhận thức pháp luật cho nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo T cũng như kháng cáo của Công ty TNHH P2 [3] Tại phiên tòa ngày hôm nay, vị đại diện Viện kiểm sát cấp cao đề nghị giảm án tù cho bị cáo T phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Do kháng cáo của bị cáo T, Công ty TNHH P1 được chấp nhận nên không phải chịu tiền án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Quang T; Chấp nhận kháng cáo của Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH P1 đại diện theo pháp luật là Phạm Quang T (bị cáo).

Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 110/2023/HS-ST ngày 28/3/2023 của Tòa án nhân dân thành phố H.

Tuyên bố bị cáo Phạm Quang T phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 192; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Phạm Quang T01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để chấp hành án.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Phạm Quang T và Công ty TNHH P1 đại diện theo pháp luật là Phạm Quang T (bị cáo) không phải chịu.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

96
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng giả số 487/2023/HS-PT

Số hiệu:487/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về