Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng giả số 17/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 17/2023/HS-ST NGÀY 07/02/2023 VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ

Trong ngày 07 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 19/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2023 và Thông báo số 48/2023/TB-HS ngày 16/01/2023 về việc thay đổi thời gian xét xử đối với bị cáo:

Lê Tấn H, tên gọi khác: Không; sinh ngày 09/9/1968 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Xóm PA, thôn PT, xã BT, huyện BS, tỉnh Quảng Ngãi; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Lê Tấn D và bà Huỳnh Thị C (Chết); có vợ nhưng đã ly hôn; có 05 con, lớn nhất sinh năm 1992, nhỏ nhất sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/9/2020 đến ngày 16/9/2020. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Tấn B, sinh năm 1969. Địa chỉ: Thôn Đ, xã TĐ, huyện ST, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt.

2. Bà Huỳnh Thị V, sinh năm 1965. Địa chỉ: Thôn ĐP, xã TN, huyện NT, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.

3. Ông Nguyễn T, sinh năm 1972. Địa chỉ: Thôn LT, xã TT, huyện NT, tỉnh Quảng Nam; có mặt.

4. Ông Dương Minh T1, sinh năm 1967. Địa chỉ: Thôn C, xã BC, huyện BS, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.

5. Bà Hồ Thị N, sinh năm 1972. Địa chỉ: Thôn TP, xã TP, thành phố TK, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.

6. Bà Trịnh Thị Lệ O, sinh năm 1979. Địa chỉ: Thôn S, xã TQ, huyện NT, tỉnh Quảng Nam; có mặt.

7. Ông Bùi Văn T2, sinh năm 1961. Địa chỉ: Thôn AL, xã DH, huyện DX, tỉnh Quảng Nam; có mặt.

8. Bà Trương Thị Q, sinh năm 1967. Địa chỉ: Thôn LT, xã TT, huyện NT, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Tấn H làm nghề xay xát gạo, mua bán nông sản, vật tư nông nghiệp, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y. Ngoài nghề xay xát gạo thì năm 2020, H còn kinh doanh nhớt thải và dầu hỏa. Khi H mua nhớt thải và dầu hỏa tại một số cây xăng thì thấy có người đổ nhớt chung với xăng vào xe mô tô, máy cắt cỏ nên H có suy nghĩ đổ nhớt thủy lực chung với dầu hỏa thì sẽ thành dầu Điêzen. H đã thử pha dần dần dầu nhớt thủy lực vào dầu hỏa và kiểm tra màu sắc, độ bôi trơn của dầu Điêzen giả do H tạo ra thì H thấy khi pha chung 01 lít dầu nhớt thủy lực với 29 lít dầu hỏa thì tạo ra được 30 lít dầu Điêzen giả có màu sắc và độ bôi trơn tương tự như 30 lít dầu Điêzen thật. H thấy chi phí mua dầu hỏa và nhớt thủy lực đã qua sử dụng để pha thành dầu Điêzen giả thấp hơn giá dầu Điêzen đang bán trên thị trường nên từ đó H làm dầu Điêzen giả bán cho các khách hàng để kiếm lời.

Vào khoảng 16 giờ, ngày 06/9/2020, Cửa hàng xăng dầu N ở xã TĐ, huyện ST, tỉnh Quảng Ngãi do ông Nguyễn Tấn B làm chủ hết dầu Điêzen để bán cho khách mà lúc này ông B chưa mua được dầu Điêzen của Công ty Cổ phần xăng dầu thương mại Sông Trà nên gọi điện thoại cho Lê Tấn H hỏi mua 10 thùng phuy (Khoảng 2000 lít) dầu Điêzen và yêu cầu H vận chuyển dầu Điêzen đến ngay trong tối ngày 06/9/2020 nhưng H trả lời là để xem lại. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, H gọi điện lại cho ông B trả lời là vào sáng sớm ngày 07/9/2020, H mới chở dầu đến bán được và ông B đồng ý. H và ông B thống nhất mua bán với giá 10.260 đồng/lít dầu Điêzen.

Khoảng 20 giờ cùng ngày, tại nhà của mình, H đưa 14 thùng phuy sắt (Loại phuy 200 lít, có mức chứa tối đa mỗi phuy là 216 lít) lên thùng xe ô tô biển kiểm soát 76K-X (Xe ô tô thuộc sở hữu của ông Lê C là anh ruột H cho H mượn sử dụng để vận chuyển nông sản). Sau đó, H đổ vào mỗi thùng phuy 04 ca dầu nhớt thủy lực đã qua sử dụng (Loại 1,5 lít/ca, tương ứng với số lượng 06 lít/phuy với giá 10.000 đồng/lít) rồi đậy nắp lại. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, H điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 76K-X chở 14 thùng phuy sắt nói trên đến cửa hàng xăng dầu số 01 ở số 306 đường Quang Trung, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi để mua dầu hỏa đổ vào 14 thùng phuy. Vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 07/9/2020, H đã mua 2.910 lít dầu hỏa với giá 10.120 đồng/lít đổ vào 14 thùng phuy đã chứa sẵn 84 lít dầu nhớt thủy lực đã qua sử dụng để pha trộn thành 2.994 lít dầu Điêzen giả.

Đến khoảng 03 giờ 45 phút ngày 07/9/2020, H điều khiển xe ô tô chở 14 thùng phuy chứa 2.994 lít dầu Điêzen giả đến Cửa hàng xăng dầu N để bán cho ông B. Tại đây, dưới sự chứng kiến của ông B, H dùng máy bơm nước hiệu Bảo Long có gắn ống hút lần lượt hút dầu Điêzen giả chứa trong 10 thùng phuy để bơm theo ống cao su xuống ngăn chứa phía Bắc của bồn chứa phía Đông toàn bộ dầu Điêzen giả chứa trong 10 thùng phuy. Sau đó, H nói với ông B mua luôn số dầu Điêzen chứa trong 04 thùng phuy còn lại thì ông B đồng ý. Tuy nhiên, H chưa kịp bơm dầu Điêzen chứa trong 04 thùng phuy còn lại thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi phát hiện, bắt quả tang tạm giữ Lê Tấn H cùng một số đồ vật liên quan, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành kiểm đếm và niêm phong số dầu Điêzen giả.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 09 ngày 03/6/2021, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sơn Tịnh, kết luận: Trị giá của 2.994 lít dầu Điêzen 0,05% giả theo trị giá của 2.994 lít dầu Điêzen 0,05% thật là 2.994 lít x 11.960 đồng/lít = 35.808.240 đồng.

Về giám định: Ngày 23/4/2021, Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng có Kết luận giám định số 81/C09C-Đ2, kết luận:

Chất lỏng trong 04 (Bốn) thùng phuy màu cam và trong 11 (Mười một) thùng phuy sắt (Đánh số từ 01 đến 11) gửi giám định đều là dầu Điêzen giả.

Các mẫu dầu Điêzen giả trên đều có chỉ tiêu: Điểm chớp cháy cốc kín (oC) và Độ nhớt động học tại 40oC (mm2/s) chỉ đạt từ 70% trở xuống so với mức tối thiểu quy định tại Bảng 4 của QCVN 1:2015/BKHCN “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xăng, nhiên liệu Điêzen và nhiên liệu sinh học” ban hành kèm theo Thông tư số 22/2015/TT-BKHCN, ngày 11/11/2015 của Bộ Khoa học và Công nghệ.

Về số tiền thu lợi bất chính: Số lượng dầu Điêzen giả Lê Tấn H bán cho ông Nguyễn Tấn B vào ngày 07/9/2020 là 2.994 lít x 10.260 đồng/lít =30.718.440 đồng, sau khi trừ tiền mua dầu hỏa là 2.910 lít x 10.120 đồng/lít = 29.449.200 đồng và tiền mua dầu nhớt thủy lực đã qua sử dụng là 84 lít x 10.000 đồng = 840.000 đồng thì số tiền Lê Tấn H thu lợi bất chính là: 30.718.440 đồng - (29.449.200 đồng + 840.000 đồng) = 429.240 đồng. Số tiền này, Lê Tấn H chưa nhận được do bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi bắt quả tang.

Ngoài ra, quá trình điều tra, Lê Tấn H còn khai nhận từ tháng 7 đến tháng 8/2020, H mua dầu nhớt thủy lực đã qua sử dụng từ bà Huỳnh Thị V, sinh năm 1965, địa chỉ: Quốc lộ 1A, xã TN, huyện NT, tỉnh Quảng Nam và mua dầu hỏa tại Cửa hàng xăng dầu số 1, số 306 đường Quang Trung, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi để pha trộn với nhau tạo thành dầu Điêzen giả sau đó đem bán cho ông Nguyễn Tấn B, ở xã TĐ, huyện ST, tỉnh Quảng Ngãi; ông Nguyễn T ở xã TT, huyện NT, tỉnh Quảng Nam; ông Dương Minh T1, ở xã BC, huyện BS, tỉnh Quảng Ngãi; bà Hồ Thị N ở xã TP, thành phố TK, tỉnh Quảng Nam; bà Trịnh Thị Lệ O, ở xã TQ, huyện NT, tỉnh Quảng Nam; ông Bùi Văn T2 ở xã DH, huyện DX, tỉnh Quảng Nam; bà Trương Thị Q ở xã TT, huyện NT, tỉnh Quảng Nam để thu lời. Khi mua bán, những người mua nói trên và bị cáo Lê Tấn H đều không có ghi chép sổ sách về số lượng dầu Điêzen giả đã mua bán, chỉ ước lượng tổng số lượng dầu Điêzen giả mà Lê Tấn H đã bán khoảng 66.400 lít. Sau khi mua dầu Điêzen từ bị cáo Lê Tấn H, những người mua này không biết là dầu Điêzen giả nên đã bán, sử dụng hết, do đó không thu được mẫu dầu Điêzen giả để giám định. Đồng thời, ngoài lời khai của Lê Tấn H và những người nói trên thì không có tài liệu chứng cứ nào khác.

Tại bản Cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 28/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố Lê Tấn H về tội "Sản xuất, buôn bán hàng giả" quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Tấn H phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả”.

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 192; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Tấn H từ 150.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên tịch thu, tiêu hủy:

+ Số dầu Điêzen giả chứa trong 14 thùng phuy sắt và 01 thùng phuy nhựa (Được đánh số thứ tự từ CA01 đến CA15).

+ 14 thùng phuy sắt trống, màu cam, loại 200 lít/phuy được đánh số lần lượt từ 1B đến 10B và từ 12 đến 15; 01 (Một) ống cao su màu đen không rõ chủng loại dài khoảng 20m; 01 (Một) bao ni lông màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng chưa xác định chủng loại, số lượng; 01 ca nhựa màu xanh, tay cầm được gắn thêm một thanh sắt, dung tích chứa 1,5 lít/ca.

- Tịch thu, sung vào ngân sách nhà Nhà nước: 01 (Một) máy bơm nước hiệu Bảo Long, màu xanh.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã qua sử dụng, model RM-1190, số Imei 1: 357721103254009, số Imei 2: 357721103754008, 01 sim điện thoại mạng Viettel, số seri 8984048000007472104; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh đen, đã qua sử dụng, model CPH -1825, số Imei 1 860163041467536, số Imei 2: 860163041467528; 01 sim điện thoại Viettel, số seri 89840200011102683891, đề nghị trả lại cho Lê Tấn H.

- Đối với 01 điện thoại di dộng hiệu NOKIA màu đen xám, đã qua sử dụng model RM-1172, số Imei 1: 354180108021702, số Imei 2: 3541801085217017;

01 sim điện thoại nhãn hiệu Viettel số seri 8984048601364598493; 01 sim điện thoại nhãn hiệu Vinaphone số seri 89840200010974017337, đề nghị trả lại cho Nguyễn Tấn B.

- Đối với số chất lỏng màu trắng đục chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 06 can nhựa màu trắng được đánh số lần lượt từ A1 đến A6; số chất lỏng màu đen chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 13 can nhựa được đánh số lần lượt từ B1 đến B13; số chất lỏng màu trắng, chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 02 can nhựa được đánh số lần lượt C1, C2; số chất lỏng màu đỏ chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 03 thùng sắt được đánh số lần lượt từ F1 đến F3; số chất lỏng màu xanh chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 03 can nhựa được đánh số lần lượt từ D1 đến D3, số chất lỏng màu đỏ chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 02 thùng sắt được đánh số lần lượt từ G1, G2; số chất lỏng màu vàng chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 01 can nhựa được đánh số H1. Đề nghị trả lại cho chủ sở hữu.

- Đối với đồ vật đang được bảo quản tại nhà kho của Lê Tấn H ở xã BT, huyện BS, tỉnh Quảng Ngãi: gồm 11 thùng nhựa (Loại thùng 1000 lít) màu trắng, kích thước 01m x 1m x 1,2m được đánh số từ 01 đến 11, bên trong có chứa chất lỏng màu đen chưa xác định chủng loại, số lượng và 05 thùng phuy (Loại thùng 200 lít) được đánh số từ E1 đến E5, thùng E1, E3, E5 là loại thùng nhựa, E2, E4 là thùng sắt, bên trong có chứa chất lỏng màu vàng, chưa xác định chủng loại, số lượng. Đề nghị trả lại cho chủ sở hữu.

- Đối với số tiền 20.000.000 đồng thu giữ của bị cáo Lê Tấn H, đề nghị tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[I] Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Dương Minh T1 vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt; bà Huỳnh Thị V, bà Hồ Thị N, bà Trương Thị Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt mà không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự quyết định xét xử vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trên.

[II] Về nội dung:

[1] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lê Tấn H đã thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi truy tố đối với bị cáo là đúng, không oan. Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo là khách quan, phù hợp với lời khai, các chứng cứ, tài liệu được thu thập, lưu giữ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định:

Bị cáo Lê Tấn H là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, đêm ngày 06/9/2020 và rạng sáng ngày 07/9/2020, Lê Tấn H đã pha trộn dầu nhớt thủy lực với dầu hỏa thành 2.994 lít dầu Điêzen giả, tương đương với số lượng dầu Điêzen thật trị giá: 35.808.240 đồng. Số dầu Điêzen giả thu giữ là 2912,44 lít có sự chênh lệch so với lời khai của bị cáo Lê Tấn H là do có sự hao hụt trong quá trình xuất, nhập, vận chuyển, tồn chứa. Số lượng dầu Điêzen giả thu giữ tương đương với số dầu Điêzen thật trị giá tương đương 34.832.782 đồng. Sau khi làm dầu Điêzen giả xong, H chở số dầu Điêzen giả này đến Cửa hàng xăng dầu N ở xã TĐ, huyện ST, tỉnh Quảng Ngãi, để bán cho ông Nguyễn Tấn B nhằm thu lợi bất chính số tiền 429.240 đồng. Khi bị cáo Lê Tấn H đang bơm dầu Điêzen giả vào bồn chứa dầu của Cửa hàng xăng dầu N thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước trong quản lý thị trường, xâm phạm lợi ích của người tiêu dùng, quyền được bảo hộ về sở hữu trí tuệ, kinh doanh đúng đắn của các doanh nghiệp. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi truy tố Lê Tấn H về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” quy định tại khoản 1 Điều 192 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lê Tấn H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình; bị cáo có cha, ông Lê Tấn D là người có công với Cách mạng, được Chủ tịch nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Xét thấy, không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mà áp dụng hình phạt tiền cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Đối với hành vi mà bị cáo Lê Tấn H khai nhận trong quá trình điều tra, từ tháng 7 đến tháng 8/2020, bị cáo mua dầu nhớt thủy lực đã qua sử dụng từ bà Huỳnh Thị V và mua dầu hỏa tại Cửa hàng xăng dầu số 1 để pha trộn với nhau tạo thành dầu Điêzen giả sau đó đem bán cho ông Nguyễn Tấn B, ông Nguyễn T, ông Dương Minh T1, bà Hồ Thị N, bà Trịnh Thị Lệ O, ông Bùi Văn T2 và bà Trương Thị Q để thu lời. Khi mua bán, những người mua nói trên và bị cáo Lê Tấn H đều không có ghi chép sổ sách về số lượng dầu Điêzen giả đã mua bán, chỉ ước lượng tổng số lượng dầu Điêzen giả mà Lê Tấn H đã bán khoảng 66.400 lít. Sau khi mua dầu Điêzen từ bị cáo Lê Tấn H, những người mua này không biết là dầu Điêzen giả nên đã bán, sử dụng hết, do đó không thu được mẫu dầu Điêzen giả để giám định. Đồng thời, ngoài lời khai của Lê Tấn H và những người nói trên thì không có tài liệu chứng cứ nào khác nên không có cơ sở xử lý Lê Tấn H và những người trên về hành vi “Sản xuất, buôn bán hàng giả”.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với các vật chứng cần tịch thu, tiêu hủy gồm:

+ Số dầu Điêzen giả chứa trong 14 thùng phuy sắt và 01 thùng phuy nhựa (Được đánh số thứ tự từ CA01 đến CA15), tại mỗi nắp có dán giấy niêm phong, đóng dấu đỏ tròn của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi, có chữ ký của bà Trần Tú Huy, ông Lê Tấn H và Nguyễn Tấn B. (Vật chứng hiện đang được gửi bảo quản tại Cửa hàng xăng dầu PV oil đường Hai bà Trưng, thành phố Quảng Ngãi).

+ 14 (Mười bốn) thùng phuy sắt trống, màu cam, loại 200 lít/phuy được đánh số lần lượt từ 1B đến 10B và từ 12 đến 15;

+ 01 (Một) ống cao su màu đen không rõ chủng loại dài khoảng 20m;

+ 01 (Một) bao ni lông màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng chưa xác định chủng loại, số lượng;

+ 01 ca nhựa màu xanh, tay cầm được gắn thêm một thanh sắt, dung tích chứa 1,5 lít/ca.

- Đối với 01 (Một) máy bơm nước hiệu Bảo Long, màu xanh là công cụ, phương tiện bị cáo dùng để phạm tội nên cần tịch thu, sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với các vật chứng không liên quan đến vụ án:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã qua sử dụng, model RM-1190, số Imei 1: 357721103254009, số Imei 2: 357721103754008, 01 sim điện thoại mạng Viettel, số seri 8984048000007472104; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh đen, đã qua sử dụng, model CPH -1825, số Imei 1: 860163041467536, số Imei 2: 860163041467528; 01 sim điện thoại Viettel, số seri 89840200011102683891 (Tất cả đã niêm phong trong một hộp carton, bên ngoài có dán niêm phong có đóng dấu đỏ tròn của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Tịnh, trên giấy niêm phong có chữ ký của Điều tra viên Lâm Quang S, ông Lê Văn H, ông Nguyễn Ngọc L, ông Lê Tấn H), cần trả lại cho Lê Tấn H + 01 điện thoại di dộng hiệu NOKIA màu đen xám, đã qua sử dụng model RM-1172, số Imei 1: 354180108021702, số Imei 2: 3541801085217017; 01 sim điện thoại nhãn hiệu Viettel số seri 8984048601364598493; 01 sim điện thoại nhãn hiệu Vinaphone số seri 89840200010974017337 (Tất cả đã được niêm phong trong một hộp carton, bên ngoài có đóng dấu của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Tịnh, có chữ ký của Điều tra viên Lâm Quang S, ông Lê Văn H, ông Nguyễn Ngọc L và ông Nguyễn Tấn B), cần trả lại cho Nguyễn Tấn B.

(Các vật chứng này đã được chuyển cho Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/02/2023 giữa Công an tỉnh Quảng Ngãi và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi).

+ Đối với 01 bể chứa dầu Điêzen 0,05%, bồn phía Đông, đặt dưới lòng đất trong khuôn viên Cửa hàng Xăng dầu N, được dán niêm phong có đóng dấu của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi, có chữ ký của Điều tra viên Trịnh Quang Vinh, cán bộ điều tra Nguyễn Trung Chính và ông Nguyễn Tấn B vào miệng và van khóa của bể chứa dầu (Vật chứng tại Cửa hàng xăng dầu N), trả lại cho ông Nguyễn Tấn B.

+ Đối với vật chứng đang được bảo quản tại Cửa hàng xăng dầu PV oil đường Hai Bà Trưng, thành phố Quảng Ngãi gồm: số chất lỏng màu trắng đục chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 06 can nhựa màu trắng được đánh số lần lượt từ A1 đến A6; số chất lỏng màu đen chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 13 can nhựa được đánh số lần lượt từ B1 đến B13; số chất lỏng màu trắng, chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 02 can nhựa được đánh số lần lượt C1, C2; số chất lỏng màu đỏ chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 03 thùng sắt được đánh số lần lượt từ F1 đến F3; số chất lỏng màu xanh chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 03 can nhựa được đánh số lần lượt từ D1 đến D3, số chất lỏng màu đỏ chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 02 thùng sắt được đánh số lần lượt từ G1, G2; số chất lỏng màu vàng chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 01 can nhựa được đánh số H1, trả lại cho Lê Tấn H.

+ Đối với đồ vật đang được bảo quản tại nhà kho của Lê Tấn H ở xã BT, huyện BS, tỉnh Quảng Ngãi: gồm 11 thùng nhựa (Loại thùng 1000 lít) màu trắng, kích thước 01m x 1m x 1,2m được đánh số từ 01 đến 11, bên trong có chứa chất lỏng màu đen chưa xác định chủng loại, số lượng và 05 thùng phuy (Loại thùng 200 lít) được đánh số từ E1 đến E5, thùng E1, E3, E5 là loại thùng nhựa, E2, E4 là thùng sắt, bên trong có chứa chất lỏng màu vàng, chưa xác định chủng loại, số lượng, trả lại cho Lê Tấn H.

- Đối với số tiền 20.000.000 đồng thu giữ của bị cáo Lê Tấn H, do áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo H, nên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Theo Ủy nhiệm chi lập ngày 03/02/2023 tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi).

[5] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Tấn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Tấn H phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả”.

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 192; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Lê Tấn H 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

2.1. Tịch thu tiêu hủy:

- Số dầu Điêzen giả chứa trong 14 thùng phuy sắt và 01 thùng phuy nhựa (Được đánh số thứ tự từ CA01 đến CA15), tại mỗi nắp có dán giấy niêm phong, đóng dấu đỏ tròn của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi, có chữ ký của bà Trần Tú Huy, ông Lê Tấn H và Nguyễn Tấn B. (Vật chứng hiện đang được gửi bảo quản tại Cửa hàng xăng dầu PV oil đường Hai Bà Trưng, thành phố Quảng Ngãi).

- 14 thùng phuy sắt trống, màu cam, loại 200 lít/phuy được đánh số lần lượt từ 1B đến 10B và từ 12 đến 15; 01 (Một) ống cao su màu đen không rõ chủng loại dài khoảng 20m; 01 (Một) bao ni lông màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng chưa xác định chủng loại, số lượng; 01 ca nhựa màu xanh, tay cầm được gắn thêm một thanh sắt, dung tích chứa 1,5 lít/ca.

2.2. Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (Một) máy bơm nước hiệu Bảo Long, màu xanh.

2.3. Trả lại các vật chứng không liên quan đến vụ án:

- Trả lại cho Lê Tấn H 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã qua sử dụng, model RM-1190, số Imei 1: 357721103254009, số Imei 2: 357721103754008, 01 sim điện thoại mạng Viettel, số seri 8984048000007472104; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh đen, đã qua sử dụng, model CPH -1825, số Imei 1 860163041467536, số Imei 2: 860163041467528; 01 sim điện thoại Viettel, số seri 89840200011102683891 (Tất cả đã niêm phong trong một hộp carton, bên ngoài có dán niêm phong có đóng dấu đỏ tròn của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Tịnh, trên giấy niêm phong có chữ ký của Điều tra viên Lâm Quang S, ông Lê Văn H, ông Nguyễn Ngọc L, ông Lê Tấn H).

- Trả lại cho Nguyễn Tấn B 01 điện thoại di dộng hiệu NOKIA màu đen xám, đã qua sử dụng model RM-1172, số Imei 1: 354180108021702, số Imei 2: 3541801085217017; 01 sim điện thoại nhãn hiệu Viettel số seri 8984048601364598493; 01 sim điện thoại nhãn hiệu Vinaphone số seri 89840200010974017337 (Tất cả đã được niêm phong trong một hộp carton, bên ngoài có đóng dấu của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Tịnh, có chữ ký của Điều tra viên Lâm Quang S, ông Lê Văn H, ông Nguyễn Ngọc L và ông Nguyễn Tấn B).

(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/02/2023 giữa Công an tỉnh Quảng Ngãi và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi).

- Trả lại cho ông Nguyễn Tấn B 01 bể chứa dầu Điêzen 0,05%, bồn phía Đông, đặt dưới lòng đất trong khuôn viên Cửa hàng Xăng dầu N, được dán niêm phong có đóng dấu của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi, có chữ ký của Điều tra viên Trịnh Quang Vinh, cán bộ điều tra Nguyễn Trung Chính và ông Nguyễn Tấn B vào miệng và van khóa của bể chứa dầu. (Vật chứng tại Cửa hàng xăng dầu Nga Ba).

- Trả lại cho Lê Tấn H các vật chứng đang được bảo quản tại Cửa hàng xăng dầu PV oil đường Hai Bà Trưng, thành phố Quảng Ngãi gồm: số chất lỏng màu trắng đục chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 06 can nhựa màu trắng được đánh số lần lượt từ A1 đến A6; số chất lỏng màu đen chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 13 can nhựa được đánh số lần lượt từ B1 đến B13; số chất lỏng màu trắng, chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 02 can nhựa được đánh số lần lượt C1, C2; số chất lỏng màu đỏ chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 03 thùng sắt được đánh số lần lượt từ F1 đến F3; số chất lỏng màu xanh chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 03 can nhựa được đánh số lần lượt từ D1 đến D3, số chất lỏng màu đỏ chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 02 thùng sắt được đánh số lần lượt từ G1, G2; số chất lỏng màu vàng chưa xác định chủng loại, số lượng được chứa trong 01 can nhựa được đánh số H1.

- Trả lại cho bị cáo Lê Tấn H các đồ vật đang được bảo quản tại nhà kho của bị cáo Lê Tấn H ở xã BT, huyện BS, tỉnh Quảng Ngãi gồm 11 thùng nhựa (Loại thùng 1000 lít) màu trắng, kích thước 01m x 1m x 1,2m được đánh số từ 01 đến 11, bên trong có chứa chất lỏng màu đen chưa xác định chủng loại, số lượng và 05 thùng phuy (Loại thùng 200 lít) được đánh số từ E1 đến E5, thùng E1, E3, E5 là loại thùng nhựa, E2, E4 là thùng sắt, bên trong có chứa chất lỏng màu vàng, chưa xác định chủng loại, số lượng, đã được niêm phong.

3. Tiếp tục tạm giữ số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) thu giữ của bị cáo Lê Tấn H tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi để đảm bảo thi hành án.

(Theo Ủy nhiệm chi lập ngày 03/02/2023 tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Tấn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng giả số 17/2023/HS-ST

Số hiệu:17/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về