Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng giả số 100/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 100/2023/HS-PT NGÀY 12/08/2023 VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ

Ngày 12 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh D xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 90/2023/TLPT-HS ngày 15 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Bình K do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2023/HS-ST ngày 05 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh D.

- Bị cáo kháng cáo: Nguyễn Bình K, sinh năm 1980, tại Q, thành phố Hà Nội; nơi cư trú: Thôn Đ, xã P, huyện T, tỉnh D; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính; Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quốc K1, con bà Đỗ Thị T (Đỗ Thị B); có vợ và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 251/2005/HSST ngày 30/9/2005, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt Nguyễn Bình K 42 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích (bị cáo đã được xoá án tích); bị cáo tại ngoại; vắng mặt.

Vụ án còn có 02 bị cáo không kháng cáo, bản án sơ thẩm không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Bình K và vợ là Nguyễn Thị T1 kinh doanh vận tải hành khách bằng xe khách nội tỉnh, liên tỉnh; vận tải hàng hóa bằng đường bộ; kinh doanh dầu nhớt, dầu động cơ các loại (Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 01N802xxxx, đăng ký lần đầu ngày 04/4/2022 do Phòng Tài chính - Kế hoạch quận L, thành phố Hà Nội cấp, địa điểm kinh doanh: Số D, phố G, phường T, quận L, thành phố Hà Nội). Từ đầu năm 2021, K nảy sinh ý định làm dầu nhớt giả tại nơi ở của vợ chồng K tại thôn Đ, xã P, huyện T, tỉnh D. K chuẩn bị các công cụ, phương tiện sử dụng vào việc sản xuất dầu nhớt giả như sau: K đặt mua trên mạng internet 01 máy dập màng niêm phong; 02 tay dập nhiệt, nhiều nắp chai dầu các nhãn hiệu, niêm màng niêm phong, tem chống hàng giả. K chế tạo 01 máy bơm dầu gồm: 01 mô tơ đã mua (dùng để thái bèo tại gia đình) với 01 đầu cao áp của xe ô tô do K mua tại bãi xe ô tô hỏng ở xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc và các ống dẫn dầu mua ở cửa hàng đồ điện nước (gọi tắt là máy bơm dầu). Thùng chứa loại 1000L, K mua ở cửa hàng thu mua đồ cũ ở khu vực Trạm thu phí Quốc lộ E tại tỉnh Hưng Yên. K mua các chai dầu, thùng giấy cát tông đựng chai dầu tại nhiều cơ sở sửa chữa, rửa xe và mua nhiều thùng chứa dầu loại 200L từ nhiều cơ sở kinh doanh dầu (không nhớ địa chỉ cụ thể). Sau khi mua được các dụng cụ trên, K bàn bạc, thống nhất với T1 về việc sản xuất dầu nhớt giả để bán kiếm lời, T1 đồng ý.

T1 chiết dầu nhớt từ thùng 1000L vào các chai dầu có dung tích nhỏ hơn, loại 800ml, 01L, 04L và 18L của nhiều nhãn hiệu khác nhau như CASTROL, HONDA, YAMALUBE.... K sử dụng máy dập nhiệt để dập niêm màng niêm phong và đóng nắp chai. Riêng đối với chai dầu nhớt loại 18L, K dán thêm tem chống hàng giả trên nắp chai rồi xếp các chai dầu vào thùng cát tông in nhãn hiệu cùng loại và đóng gói hoàn thiện. Số dầu nhớt này, K mang đi tiêu thụ ở nhiều nơi trong và ngoài tỉnh D (không nhớ đã bán cho những ai).

Khoảng 20 giờ ngày 15/6/2022, Trương Quang D đến mua của K, T1 60 chai dầu nhớt giả để đi bán kiếm lời gồm: 43 chai nhãn hiệu Castrol Magnatec 10W-40 và 17 chai nhãn hiệu Castrol Magnatec Start E, đều loại dung tích 4L với giá 180.000đ/1chai. Tổng giá trị là 10.800.000 đồng. Hai bên thỏa thuận khi nào Diện bán hết số dầu nhớt giả này thì D mới trả tiền hàng cho K. K và D chuyển dầu nhớt trên lên xe ô tô BKS 29A-xxxxx do D điều khiển (Xe của anh Trương Ngọc T2, sinh năm 1983, trú tại: Thôn Đ, xã P, huyện T, tỉnh D, là em trai Diện). Khoảng 20 giờ 45 phút cùng ngày, khi D điều khiển xe ô tô đi đến địa phận xã P, huyện G, tỉnh D thì bị lực lượng Công an huyện G kiểm tra, phát hiện, thu giữ tang vật là 60 chai dầu nhớt giả và 01 xe ô tô BKS 29A-xxxxx cùng các giấy tờ có liên quan. Tất cả số dầu nhớt Diện vận chuyển đều không có hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ sản phẩm.

Cơ quan điều tra đã khám xét nơi ở của vợ chồng K thu giữ toàn bộ công cụ, phương tiện sản xuất nêu trên kèm theo số lượng lớn dầu nhớt đã thành phẩm và chưa thành phẩm.

Tại Kết luận giám định số 5446/KL-KTHS ngày 31/8/2022, V Bộ C, kết luận: Chất lỏng trong các chai, thùng gửi giám định đều là dầu nhớt, đều không cùng loại (khác nhau về một số chỉ tiêu lý, hóa) với các mẫu dầu nhớt so sánh tương ứng; đều là dầu nhớt giả (hàng giả) các nhãn hiệu Castrol, H, Yamaha Y;

1005 (một nghìn không trăm linh năm) chiếc niêm màng niêm phong, hình tròn, logo nhãn hiệu Castrol gửi giám định đều không cùng loại với niêm màng niêm phong trong các chai dầu nhớt nhãn hiệu Castrol gửi làm mẫu so sánh; 02 (hai) chiếc tem chống hàng giả và 06 (sáu) tấm, mỗi tấm gồm 12 (mười hai) chiếc tem chống hàng giả có in mã QR: CB1V72W9MR có logo nhãn hiệu Castrol gửi giám định đều không cùng loại với tem chống hàng giả trên thùng dầu nhớt nhãn hiệu Castrol, loại dầu CRB TURBOMAX 20W-50 CI-4, dung tích 18L gửi làm mẫu so sánh; 13 (mười ba) tấm nhãn dán, mỗi tấm gồm 03 (ba) nhãn mặt sau có in nhãn hiệu: HONDA mã P/N: 08232-2MA-KOLVD và 03 (ba) nhãn mặt trước in: Dầu nhớt xe số loại đa cấp 4TSL10W-30 loại 800ml được niêm phong trong túi niêm phong ký hiệu NS2 - 2105343 gửi giám định không tiến hành giám định do không có mẫu so sánh tương ứng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 26, 27/KLĐG-HĐ ngày 12/9/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện G, kết luận: 1029 chai dầu nhờn thành phẩm thu giữ của Nguyễn Bình K có giá trị tương đương là 139.421.950 đồng; 60 chai dầu nhờn thu giữ của Trương Quang D có trị giá tương đương 40.267.900 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2023/HS-ST ngày 05/5/2023, Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh D đã quyết định: Căn cứ điểm đ khoản 2, khoản 4 Điều 192, Điều 38, Điều 17, Điều 58, điểm s, v khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố Nguyễn Bình K phạm tội Sản xuất, buôn bán hàng giả. Xử phạt Nguyễn Bình K 36 tháng tù, thời hạn tính từ ngày thi hành án, phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 đồng sung quỹ nhà nước. Ngoài ra bản án áp dụng pháp luật tuyên tội danh, hình phạt đối với các bị cáo khác, tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 17/5/2023, bị cáo Nguyễn Bình K kháng cáo xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh D đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Bình K trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Bị cáo kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, có đơn đề nghị hoãn phiên tòa với lý do đang điều trị bệnh suy nhược thần kinh nhưng không có tài liệu chứng cứ chứng minh. Như vậy lý do xin hoãn phiên tòa của bị cáo không chính đáng, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt bị cáo.

[2] Về nội dung:

Tại cấp sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Bình K thừa nhận toàn bộ hành vi như cáo trạng truy tố bị cáo; lời khai của bị cáo K phù hợp lời khai của các bị cáo khác trong vụ án, phù hợp vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Từ đầu năm 2021 đến ngày 15/6/2022, vợ chồng Nguyễn Bình K và Nguyễn Thị T1 có hành vi sản xuất và buôn bán dầu nhớt giả. Kha thu mua dầu nhớt không rõ nguồn gốc từ nhiều nơi về tập hợp tại nơi ở của gia đình rồi cùng Nguyễn Thị T1 đóng thành các chai, can dầu nhớt thành phẩm nhãn hiệu CASTROL, HONDA, YAMALUBE.... với nhiều dung tích khác nhau, có niêm màng niêm phong, dán tem chống hàng giả rồi mang tiêu thụ ở nhiều nơi trong và ngoài tỉnh D. Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 15/6/2022, K và T1 đã bán 60 thùng dầu nhớt giả có giá trị tương đương với số lượng hàng thật là 40.267.900 đồng cho Trương Quang D để D đi bán kiếm lời. Đến khoảng 20 giờ 45 phút cùng ngày, khi D đang vận chuyển số dầu nhớt giả trên đi bán thì bị lực lượng Công an huyện G bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật. Khám xét chỗ ở N thu giữ 1029 chai dầu nhờn thành phẩm thu giữ của Nguyễn Bình K, Nguyễn Thị T1 có giá trị tương đương số lượng hàng thật là 139.421.950 đồng và toàn bộ tang vật để sản xuất dầu nhớt giả. Hành vi của bị cáo K và các bị cáo khác trong vụ án là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự xã hội trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, kinh doanh thương mại, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Bị cáo K có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình vi phạm điều cấm của pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện vì tư lợi. Tổng giá trị hàng hóa bị cáo K và bị cáo T1 đã làm giả và bán cho Trương Quang D tương đương với số lượng hàng thật là 179.689.850 đồng. Do vậy, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo K tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” theo điểm đ khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Về tội danh và điều khoản pháp luật áp dụng bị cáo không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị.

Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Bình K: Bị cáo có nhân thân không tốt, từng bị Tòa án xét xử về tội Cố ý gây thương tích và phải chấp hành hình phạt tù. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và đã được cấp sơ thẩm áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, được Chủ nhiệm Cục C1, Bộ - Bộ Q tặng Bằng khen, có bố đẻ được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhì quy định tại điểm s, v khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Với tính chất mức độ hành vi bị cáo và đồng phạm đã thực hiện, vai trò của bị cáo trong vụ đồng phạm là người chủ mưu, chuẩn bị công cụ, phương tiện để sản xuất, đồng thời là người thực hành tích cực trong việc sản xuất và bán hàng giả, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là 36 tháng tù là đã xem xét chiếu cố cho bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo tự nguyện nộp tiền phạt bổ sung theo quyết định của bản án sơ thẩm. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới cần áp dụng cho bị cáo theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng tình tiết này không làm giảm đáng kể tính nguy hiểm của hành vi bị cáo đã thực hiện. Việc cách ly bị cáo khỏi xã hội là cần thiết để trừng trị, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Do vậy, kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo không có căn cứ chấp nhận.

[3] Về án phí: Bị cáo kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, 1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Bình K. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2023/HS-ST ngày 05 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh D về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Bình K.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 192, điểm s, v khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58, khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Bình K 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày thi hành án về tội: “Sản xuất, buôn bán hàng giả”.

Ghi nhận bị cáo Nguyễn Bình K đã nộp 20.000.000 đồng tiền phạt bổ sung theo quyết định của Bản án sơ thẩm số 27/2023/HS-ST ngày 05 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh D theo Biên lai thu số AA/2020/0000178 ngày 17/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lộc, tỉnh D.

2. Buộc bị cáo Nguyễn Bình K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng giả số 100/2023/HS-PT

Số hiệu:100/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về