Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm số 88/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 88/2022/HSST NGÀY 30/05/2022 VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ LÀ PHỤ GIA THỰC PHẨM

Trong ngày 30 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương công khai xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 76/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Q, sinh năm: 1979 tại tỉnh Nam Định; hộ khẩu thường trú: Khu phố 3, phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Kinh doanh; bị cáo là con của ông Nguyễn Xuân Q, sinh năm 1950 và bà Hoàng Thị Kh, sinh năm 1951; bị cáo có chồng là Nguyễn Đăng T, sinh năm 1978 và có 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không. Ngày 26/4/2021, bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Nguyễn Đăng T, sinh năm 1978; Trú tại: Khu phố 3, phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu xét xử vắng mặt

2. Ông Nguyễn Đăng T1, sinh năm 1982; Trú tại: Khu phố 1, phường TH, thị xã BC, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu xét xử vắng mặt.

3. Công ty A Việt Nam; địa chỉ: Khu công nghiệp Biên Hòa I, phường AB, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai. Có yêu cầu xét xử vắng mặt.

4. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Quốc tế U Việt Nam; địa chỉ: Lô A2-3, khu công nghiệp TB CC, xã TAH, huyện CC, Thành Phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 10 giờ 35 phút ngày 05/01/2021, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy Công an thị xã Bến Cát tiến hành kiểm tra hành chính hộ kinh doanh Nguyễn Đăng T, địa chỉ: Đường DC5, khu phố 3, phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 46C8023018 do Ủy ban nhân dân thị xã Bến Cát cấp, đăng ký lần đầu ngày 14/9/2015, do ông Nguyễn Đăng T là đại diện hộ kinh doanh). Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện thu giữ:

- 41 (bốn mươi mốt) gói bột giặt nhãn hiệu NET loại 06kg;

- 331 (ba trăm ba mươi mốt) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 400g;

- 285 (hai trăm tám mươi lăm) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 800g;

- 05 (năm) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 03kg;

- 16 (mười sáu) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 4,5kg;

- 64 (sáu mươi bốn) gói bột giặt in nhãn hiệu ABA loại 400g;

- 89 (tám mươi chín) gói bột giặt in nhãn hiệu ABA loại 800g;

- 11 (mươi một) gói bột giặt in nhãn hiệu ABA loại 03kg;

- 17 (mười bảy) bao hạt nêm nhãn hiệu Bếp Hồng loại 10kg;

- 12 (mươi hai) bao hạt nêm nhãn hiệu Happy loại 10kg;

- 180 (một trăm tám mươi) gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 170g;

- 73 (bảy mươi ba) gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 400g;

- 19 (mười chín) gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 900g;

- 10 (mười) bao bột ngọt không rõ nhãn hiệu loại 25kg;

- 302 (ba trăm lẻ hai) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 100g;

- 270 (hai trăm bảy mươi) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 140g;

- 573 (năm trăm bảy mươi ba) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 400g;

- 105 (một trăm lẻ năm) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 01kg;

- 40,5 (bốn mươi phẩy năm) kilôgam bao bì in nhãn hiệu OMO các loại;

- 12 (mười hai) kilôgam bao bì in nhãn hiệu ABA các loại;

- 15,5 (mười lăm phẩy năm) kilôgam bao bì in nhãn hiệu Aji-no-moto các loại;

- 07 (bảy) kilôgam bao bì in nhãn hiệu Knorr các loại;

- 89 (tám mươi chín) gói hạt nêm nhãn hiệu Ajingon loại 170g;

- 34 (ba mươi bốn) kilôgam bột ngọt không rõ nhãn hiệu;

- 01 (một) cân nhãn hiệu Nhơn Hòa loại 05kg;

- 01 (một) máy ép nhãn hiệu Cường Phát;

- 01 (một) máy ép nhãn hiệu Tân Thanh;

- 150 (một trăm năm mươi) bộ bài tây;

- 01 (một) bộ dụng cụ đo.

Tại các Thông báo kết quả giám định số 0021a/N3.21/TĐ, 0021b/N3.21/TĐ, 0021c/N3.21/TĐ, 0021d/N3.21/TĐ cùng ngày 08/3/2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3, xác định:

+ 04 (bốn) mẫu giám định Bột giặt OMO có kết quả kiểm tra bao bì, ghi nhãn, ngoại quan khác với kết quả kiểm tra và thử nghiệm tương ứng của các mẫu so sánh.

+ 03 (ba) mẫu giám định Bột giặt ABA có kết quả kiểm tra bao bì, ghi nhãn, ngoại quan khác với kết quả kiểm tra và thử nghiệm tương ứng của các mẫu so sánh.

+ 04 (bốn) mẫu giám định Bột ngọt Aji-no-moto có kết quả kiểm tra bao bì, ghi nhãn, ngoại quan khác với kết quả kiểm tra và thử nghiệm tương ứng của mẫu so sánh.

+ 03 (ba) mẫu giám định Hạt nêm Knorr có kết quả kiểm tra bao bì, ghi nhãn, ngoại quan khác với kết quả kiểm tra và thử nghiệm tương ứng của mẫu so sánh.

Theo Kết luận định giá tài sản số 42/KL-HĐĐGTS ngày 02/4/20201 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Bến Cát, kết luận:

- 331 gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 400g trị giá 6.123.500 đồng; 285 gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 800g trị giá 10.402.500 đồng; 05 gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 03kg trị giá 645.000 đồng; 16 gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 4,5kg trị giá 3.024.000 đồng; 64 gói bột giặt in nhãn hiệu ABA loại 400g trị giá 952.000 đồng; 89 gói bột giặt in nhãn hiệu ABA loại 800g trị giá 2.609.925 đồng; 11 gói bột giặt in nhãn hiệu ABA loại 03kg trị giá 1.135.200 đồng. Tổng giá trị bột giặt OMO, ABA là 24.892.125 đồng.

- 180 gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 170g trị giá 2.880.000 đồng; 73 gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 400g trị giá 2.409.000 đồng; 19 gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 900g trị giá 1.406.000 đồng; 302 gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 100g trị giá 2.265.000 đồng; 270 gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 140g trị giá 2.700.000 đồng; 573 gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji- no-moto loại 400g trị giá 16.330.500 đồng; 105 gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji- no-moto loại 1kg trị giá 6.615.000 đồng. Tổng giá trị hạt nêm Knorr, bột Aji- no-moto là 34.605.500 đồng.

Theo Công văn số 294/ATTP-NV ngày 07/10/2020 của Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm thuộc Sở Y tế tỉnh Bình Dương, xác định: Bột ngọt là phụ gia thực phẩm. Hạt nêm là một hỗn hợp chứa một số nguyên liệu và phụ gia thực phẩm trong thành phần.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Q và Nguyễn Đăng T khai nhận: Q và T là vợ chồng và cùng mở cửa hàng tạp hóa Nguyễn Đăng T từ ngày 14/9/2015, nhưng đến cuối năm 2017 cửa hàng mới bắt đầu hoạt động. Khi mới mở cửa hàng, T phụ giúp Q đi giao hàng trong khoảng 01 tháng thì T đi làm môi giới bất động sản nên mọi hoạt động kinh doanh mua bán tại cửa hàng do Q quản lý, thực hiện.

Khoảng tháng 7/2020, một số người đi xe tải (không rõ nhân thân, lai lịch) đến tạp hóa Nguyễn Đăng T chào bán hàng giả đã được đóng gói sẵn là bột ngọt nhãn hiệu Aji-no-moto, hạt nêm nhãn hiệu Knorr và bột giặt nhãn hiệu OMO, ABA. Vì hàng giả có giá thành rẻ hơn nên Q đồng ý mua hàng giả để bán lại cho các cửa hàng nhỏ lẻ kiếm lời. Đến khoảng tháng 11/2020, người bán hàng giả này nói với Q là muốn có các loại hàng hóa nêu trên với giá thành rẻ hơn nữa thì Q mua bao bì giả của họ về tự đóng gói, sản xuất. Sau đó, Q mua bao bì giả và một số sản phẩm dùng làm nguyên liệu sản xuất hàng giả với giá thành như sau:

- Các loại bao bì giả: Bột ngọt Aji-no-moto loại 100g giá 450 đồng/cái, loại 140g giá 600 đồng/cái, loại 400g giá 1.000 đồng/cái và loại 01kg giá 1.500 đồng/cái; hạt nêm Knorr loại 170g giá 1.700 đồng/cái, loại 400g giá 2.900 đồng/cái và loại 900g giá 3.900 đồng/cái; bột giặt OMO và bột giặt ABA loại 400g giá 1.000 đồng/cái, loại 800g giá 1.500 đồng/cái, loại 03kg giá 8.000 đồng/cái và loại 4,5kg giá 14.000 đồng/cái.

- Nguyên liệu: Bao bột ngọt loại 25kg có in chữ nước ngoài trên bao bì với giá 800.000 đồng/bao; hạt nêm Bếp Hồng và hạt nêm Happy loại 10kg với giá 195.000 đồng/bao; bột giặt NET loại 06kg với giá 112.000 đồng/gói;

Ngoài ra, Q mua thêm 01 máy ép nhiệt hiệu Tân Thanh, 01 máy ép nhiệt hiệu Cường Phát và sử dụng 01 cân đồng hồ nhãn hiệu Nhơn Hòa loại 05kg, dụng cụ xúc có sẵn tại cửa hàng để sử dụng làm công cụ sản xuất hàng giả.

Q thực hiện việc đóng gói, sản xuất hàng giả một mình tại khu vực nhà kho ở phía sau cửa hàng (tiếp giáp với phòng ngủ được ngăn cách bằng cửa sắt đóng kín, diện tích 05m x 02m), trong khoảng thời gian nghỉ trưa, buổi tối khi T không có ở nhà. Q thực hiện quy trình sản xuất hàng giả như sau:

- Bước 1: Q mở bao bì các loại nguyên liệu là bột giặt NET loại 06kg, hạt nêm hiệu Bếp Hồng loại 10kg, hạt nêm hiệu Happy loại 10kg và bột ngọt loại 25kg.

- Bước 2: Q dùng dụng cụ xúc lấy bột giặt NET bỏ vào bao bì giả bột giặt OMO và bột giặt ABA; lấy bột ngọt trong bao 25kg bỏ vào bao bì giả bột ngọt Aji-no-moto; lấy hạt nêm hiệu Bếp Hồng hoặc hạt nêm hiệu Happy bỏ vào bao bì giả hạt nêm Knorr.

- Bước 3: Q dùng cân đồng hồ nhãn hiệu Nhơn Hòa loại 05kg để cân các bao bì chứa bột ngọt, bột giặt, hạt nêm đã làm giả sao cho khối lượng đúng với khối lượng tịnh được in trên từng loại bao bì giả.

- Bước 4: Q dùng máy ép nhiệt hiệu Cường Phát, máy ép nhiệt hiệu Tân Thanh hàn ép mép miệng của bao bì để hoàn thiện hàng giả là bột giặt OMO, bột giặt ABA, hạt nêm Knorr và bột ngọt Aji-no-moto.

Sau khi mua, sản xuất hàng giả, Q bày bán hàng giả chung với những sản phẩm hàng thật cùng loại tại cửa hàng Nguyễn Đăng T và đem đến các tiệm tạp hóa nhỏ lẻ trên địa bàn thị xã Bến Cát và huyện Bàu Bàng để chào bán với giá bán hàng giả như sau:

- Bột giặt OMO, ABA giả loại 400g bán 9.000 đồng/gói, loại 800g bán từ 18.000 đồng đến 19.000 đồng/gói, loại 03kg bán 75.000 đồng/gói, loại 4,5kg bán 100.000 đồng/gói.

- Hạt nêm Knorr giả loại 170g bán từ 9.000 đồng đến 10.000 đồng/gói, loại 400g bán 22.000 đồng/gói, loại 900g bán 34.000 đồng/gói, - Bột ngọt Aji-no-moto giả loại 100g bán 4.000 đồng/gói, loại 140g bán 6.000 đồng/gói, loại 400g bán 16.000 đồng/gói, loại 01kg bán 38.000 đồng/gói.

Đối với 41 (bốn mươi mốt) gói bột giặt nhãn hiệu NET loại 06kg; 17 (mười bảy) bao hạt nêm nhãn hiệu Bếp Hồng loại 10kg; 12 (mười hai) bao hạt nêm nhãn hiệu Happy loại 10kg và 10 (mười) bao bột ngọt không rõ nhãn hiệu loại 25kg mà lực lượng Công an thu giữ thì Q không xác định được sẽ sử dụng các loại nguyên liệu này để sản xuất thêm bao nhiêu hàng giả, vì Q vẫn mua bán các loại hàng hóa này cho các quán ăn, nhà nghỉ, tiệm giặt ủi… và còn tùy theo nhu cầu của khách hàng.

Về số tiền thu lợi bất chính từ việc sản xuất, mua bán hàng giả: Do Q không có sổ ghi chép và toàn bộ số tiền thu lợi bất chính Q gộp chung vào tiền kinh doanh các loại mặt hàng khác để sử dụng cho hoạt động kinh doanh của cửa hàng nên Q không xác định được đã thu lợi được bao nhiêu.

Qua xác minh, làm việc với người đại diện của Công ty A Việt Nam, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Quốc tế U Việt Nam và Công ty Trách nhiệm hữu hạn sản xuất và thương mại ĐVH (địa chỉ: 111 Nguyễn Trãi, phường BT, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh) thì 03 công ty cung cấp giá bán, sản phẩm là bột giặt OMO, bột giặt ABA, hạt nêm Knorr, bột ngọt Aji-no-moto để phục vụ cho việc giám định, định giá và 03 công ty đều không yêu cầu Nguyễn Thị Q bồi thường hay chịu trách nhiệm dân sự gì khác.

Đối với khách hàng mua hàng giả trực tiếp tại cửa hàng thì Q không rõ nhân thân, lai lịch của những người này. Đối với các tiệm tạp hóa Q đã bán hàng giả, Q chỉ nhớ bán cho ông Nguyễn Đăng T1 là chủ tiệm tạp hóa Trang Tn, địa chỉ: NI7, khu phố 1, phường TH, thị xã BC, tỉnh Bình Dương. Qua làm việc, ông Tn khai nhận có mua các loại hàng hóa là bột giặt OMO, ABA, hạt nêm Knorr, bột ngọt Aji-no-moto của cửa hàng Nguyễn Đăng T nhưng không nhớ số lượng bao nhiêu và không biết đó là hàng giả, hàng hóa mua được đã bán hết.

Tại bản Cáo trạng số 82/CT-VKSBC ngày 25 tháng 4 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Q về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm” theo quy định tại khoản 1 Điều 193 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị Q, và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 193; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Thị Quy mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời hạn thử thách theo quy định pháp luật.

Xử phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

*Về xử lý vật chứng, đề nghị HĐXX tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy đối với:

+ 330 (ba trăm ba mươi) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 400g;

+ 284 (hai trăm tám mươi tư) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 800g;

+ 04 (bốn) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 03kg;

+ 15 (mười lăm) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 4,5kg;

+ 63 (sáu mươi ba) gói bột giặt in nhãn hiệu ABA loại 400g;

+ 88 (tám mươi tám) gói bột giặt in nhãn hiệu ABA loại 800g;

+ 10 (mười) gói bột giặt in nhãn hiệu ABA loại 03kg;

+ 179 (một trăm bảy mươi chín) gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 170g;

+ 72 (bảy mươi hai) gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 400g;

+ 18 (mười tám) gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 900g;

+ 301 (ba trăm lẻ một) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 100g;

+ 269 (hai trăm sáu mươi chín) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 140g;

+ 572 (năm trăm bảy mươi hai) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 400g;

+104 (một trăm lẻ bốn) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 01kg;

+ 40,5 (bốn mươi phẩy năm) kilôgam bao bì in nhãn hiệu OMO các loại;

+ 12 (mười hai) kilôgam bao bì in nhãn hiệu ABA các loại;

+ 15,5 (mười lăm phẩy năm) kilôgam bao bì in nhãn hiệu Aji-no-moto các loại;

+ 07 (bảy) kilôgam bao bì in nhãn hiệu Knorr các loại;

+ 34 (ba mươi bốn) kilôgam bột ngọt không rõ nhãn hiệu;

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước:

+ 01 (một) cân nhãn hiệu Nhơn Hòa loại 05kg;

+ 01 (một) máy ép nhãn hiệu Cường Phát;

+ 01 (một) máy ép nhãn hiệu Tân Thanh;

+ 01 (một) bộ dụng cụ đo.

- Giao trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Nguyễn Đăng T1 – Chủ hộ kinh doanh tạp hóa Nguyễn Đăng T1 các tài sản sau:

+ 89 (tám mươi chín) gói hạt nêm nhãn hiệu Ajingon loại 170g;

+ 150 (một trăm năm mươi) bộ bài tây;

+ 17 (mười bảy) bao hạt nêm nhãn hiệu Bếp Hồng loại 10kg;

+ 41 (bốn mươi mốt) gói bột giặt nhãn hiệu NET loại 06kg;

+ 12 (mươi hai) bao hạt nêm nhãn hiệu Happy loại 10kg;

+ 10 (mười) bao bột ngọt không rõ nhãn hiệu loại 25kg;

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đồng ý với quyết định truy tố, điều khoản áp dụng, mức hình phạt và xử lý vật chứng của Viện Kiểm sát.

Tại phiên tòa, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của các bị cáo, ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Đối với hành vi phạm tội của bị cáo:

Vào lúc 10 giờ 35 phút ngày 05/01/2021, tại cửa hàng tạp hóa Nguyễn Đăng T, địa chỉ: Đường DC5, khu phố 3, phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương, lực lượng Công an kiểm tra phát hiện và thu giữ được số lượng phụ gia thực phẩm giả gồm: 180 (một trăm tám mươi) gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 170g, 73 (bảy mươi ba) gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 400g, 19 (mười chín) gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 900g, 302 (ba trăm lẻ hai) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 100g, 270 (hai trăm bảy mươi) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 140g, 573 (năm trăm bảy mươi ba) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 400g, 105 (một trăm lẻ năm) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 01kg. Tổng số lượng hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật trị giá là 34.605.500đ (ba mươi bốn triệu sáu trăm lẻ năm nghìn năm trăm đồng). Toàn bộ số lượng hàng giả này do Nguyễn Thị Q mua nguyên liệu, bao bì và máy móc rồi tự sản xuất nhằm mục đích bán lại kiếm lời. .

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo là phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan, vật chứng của vụ án và các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án.

Hành vi của bị cáo rất nguy hiểm, không những xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng và uy tín của những doanh nghiệp có sản phẩm bị làm giả.

Xét bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi dùng các nguyên liệu, bao bì về sản xuất các loại phụ gia thực phẩm để bán kiếm lời là vi phạm pháp luật, sẽ bị trừng trị, nhưng vì ý thức xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm quy định tại khoản 1 Điều 193 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Do vậy, Cáo trạng số 82/QĐ-KSĐT ngày 25/4/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo được HĐXX cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt gồm: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có ông nội, là người có công trong cuộc kháng chiến chống Pháp, bác ruột là người có công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; bị cáo Q cũng đang nuôi con nhỏ. Do đó, các bị cáo được HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Xét lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều khoản, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ và phù hợp pháp luật, nên được HĐXX chấp nhận.

Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, việc không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù cũng không ảnh hưởng đến công tác phòng ngừa tội phạm chung và thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước. Thiết nghĩ, khi quyết định hình phạt, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội cũng đủ cải tạo, răn đe, giáo dục các bị cáo thành công dân tốt, có ích cho xã hội. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Cần tịch thu tiêu hủy đối với các sản phẩm là hàng giả cũng như nguyên liệu (không rõ nhãn hiệu, xuất xứ hàng hóa, đã sử dụng một phần), bao bì bị cáo sử dụng vào việc sản xuất hàng giả gồm:

+ 330 (ba trăm ba mươi) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 400g;

+ 284 (hai trăm tám mươi tư) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 800g;

+ 04 (bốn) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 03kg;

+ 15 (mười lăm) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 4,5kg;

+ 63 (sáu mươi ba) gói bột giặt in nhãn hiệu ABA loại 400g;

+ 88 (tám mươi tám) gói bột giặt in nhãn hiệu ABA loại 800g;

+ 10 (mười) gói bột giặt in nhãn hiệu ABA loại 03kg;

+ 179 (một trăm bảy mươi chín) gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 170g;

+ 72 (bảy mươi hai) gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 400g;

+ 18 (mười tám) gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 900g;

+ 301 (ba trăm lẻ một) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 100g;

+ 269 (hai trăm sáu mươi chín) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 140g;

+ 572 (năm trăm bảy mươi hai) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 400g;

+104 (một trăm lẻ bốn) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 01kg;

+ 40,5 (bốn mươi phẩy năm) kilôgam bao bì in nhãn hiệu OMO các loại;

+ 12 (mười hai) kilôgam bao bì in nhãn hiệu ABA các loại;

+ 15,5 (mười lăm phẩy năm) kilôgam bao bì in nhãn hiệu Aji-no-moto các loại;

+ 07 (bảy) kilôgam bao bì in nhãn hiệu Knorr các loại;

+ 34 (ba mươi bốn) kilôgam bột ngọt không rõ nhãn hiệu (bao đựng đã sử dụng một phần);

- Cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước những loại máy móc, dụng cụ có giá trị sử dụng mà bị cáo sử dụng vào mục đích sản xuất hàng giả:

+ 01 (một) cân nhãn hiệu Nhơn Hòa loại 05kg;

+ 01 (một) máy ép nhãn hiệu Cường Phát;

+ 01 (một) máy ép nhãn hiệu Tân Thanh;

+ 01 (một) bộ dụng cụ đo.

- Đối với những hàng hóa thật, có nhãn hiệu và là mặt hàng, sản phẩm được kinh doanh mà cơ quan công an đã thu giữ, cần giao trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Nguyễn Đăng T – Chủ hộ kinh doanh tạp hóa Nguyễn Đăng T, gồm:

+ 89 (tám mươi chín) gói hạt nêm nhãn hiệu Ajingon loại 170g;

+ 150 (một trăm năm mươi) bộ bài tây;

+ 17 (mười bảy) bao hạt nêm nhãn hiệu Bếp Hồng loại 10kg;

+ 41 (bốn mươi mốt) gói bột giặt nhãn hiệu NET loại 06kg;

+ 12 (mươi hai) bao hạt nêm nhãn hiệu Happy loại 10kg;

+ 10 (mười) bao bột ngọt không rõ nhãn hiệu do ghi chữ nước ngoài loại 25kg.

 [8] Đối với hành vi sản xuất, mua bán hàng giả là bột giặt OMO và bột giặt ABA có giá trị trương đương với số lượng của hàng thật là 24.892.125 đồng (hai mươi bốn triệu tám trăm chín mươi hai nghìn một trăm hai mươi lăm đồng) của Nguyễn Thị Q, do chưa đủ định lượng cấu thành tội “sản xuất, mua bán hàng giả” theo quy định tại Điều 192 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát chuyển hồ sơ đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Bến Cát xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền là có căn cứ.

Đối với Nguyễn Đăng T là đại diện hộ kinh doanh Nguyễn Đăng T nhưng mọi hoạt động kinh doanh mua bán tại cửa hàng, do Nguyễn Thị Q quản lý, thực hiện, Thủy không biết Quy sản xuất, mua bán hàng giả nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Thủy là có căn cứ.

Đối với các đối tượng (không rõ nhân thân, lai lịch) bán hàng giả và bao bì sản phẩm giả cho Nguyễn Thị Q, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát đang tiếp tục điều tra làm rõ, khi nào điều tra được sẽ xử lý sau.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Q phạm tội: “Sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

Áp dụng các khoản 1, 5 Điều 193; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

- Về hình phạt chính:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Q mức án 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách là 05 (năm) năm, được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo Nguyễn Thị Q cho Ủy ban nhân dân phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì Ủy ban nhân dân phường nơi được giao để giám sát phải thông báo cho Cơ quan Thi hành án hình sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương để tiến hành thủ tục theo quy định tại Điều 68 và Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

- Về hình phạt bổ sung: Xử phạt bị cáo số tiền 30.000.000 đồng.

3. Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú theo các Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 117/LCCC-TA, cùng ngày 25/4/2022 đối với bị cáo Nguyễn Thị Q.

4. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy đối với:

+ 330 (ba trăm ba mươi) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 400g;

+ 284 (hai trăm tám mươi tư) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 800g;

+ 04 (bốn) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 03kg;

+ 15 (mười lăm) gói bột giặt in nhãn hiệu OMO loại 4,5kg;

+ 63 (sáu mươi ba) gói bột giặt in nhãn hiệu ABA loại 400g;

+ 88 (tám mươi tám) gói bột giặt in nhãn hiệu ABA loại 800g;

+ 10 (mười) gói bột giặt in nhãn hiệu ABA loại 03kg;

+ 179 (một trăm bảy mươi chín) gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 170g;

+ 72 (bảy mươi hai) gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 400g;

+ 18 (mười tám) gói hạt nêm in nhãn hiệu Knorr loại 900g;

+ 301 (ba trăm lẻ một) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 100g;

+ 269 (hai trăm sáu mươi chín) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 140g;

+ 572 (năm trăm bảy mươi hai) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 400g;

+104 (một trăm lẻ bốn) gói bột ngọt in nhãn hiệu Aji-no-moto loại 01kg;

+ 40,5 (bốn mươi phẩy năm) kilôgam bao bì in nhãn hiệu OMO các loại;

+ 12 (mười hai) kilôgam bao bì in nhãn hiệu ABA các loại;

+ 15,5 (mười lăm phẩy năm) kilôgam bao bì in nhãn hiệu Aji-no-moto các loại;

+ 07 (bảy) kilôgam bao bì in nhãn hiệu Knorr các loại;

+ 34 (ba mươi bốn) kilôgam bột ngọt không rõ nhãn hiệu;

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước:

+ 01 (một) cân nhãn hiệu Nhơn Hòa loại 05kg;

+ 01 (một) máy ép nhãn hiệu Cường Phát;

+ 01 (một) máy ép nhãn hiệu Tân Thanh;

+ 01 (một) bộ dụng cụ đo.

- Giao trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Nguyễn Đăng T – Chủ hộ kinh doanh tạp hóa Nguyễn Đăng T các hàng hóa, gồm:

+ 89 (tám mươi chín) gói hạt nêm nhãn hiệu Ajingon loại 170g;

+ 150 (một trăm năm mươi) bộ bài tây;

+ 17 (mười bảy) bao hạt nêm nhãn hiệu Bếp Hồng loại 10kg;

+ 41 (bốn mươi mốt) gói bột giặt nhãn hiệu NET loại 06kg;

+ 12 (mươi hai) bao hạt nêm nhãn hiệu Happy loại 10kg;

+ 10 (mười) bao bột ngọt không rõ nhãn hiệu loại 25kg;

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29/5/2022 giữa Công an thị xã Bến Cát và Chi cục THADS thị xã Bến Cát).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Thị Q phải nộp 200.000 đồng.

6. Về quyền kháng cáo:

- Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

450
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm số 88/2022/HSST

Số hiệu:88/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về